Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 01/11/2024 20:42 (GMT +7)
Thủ tướng Chính phủ: Vùng đồng bằng sông Hồng sẽ là vùng động lực phát triển hàng đầu của cả nước
Chủ nhật, 12/02/2023 | 12:37:00 [GMT +7] A A
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh: Khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế vượt trội để phát triển nhanh, bền vững Vùng đồng bằng sông Hồng thực sự là vùng động lực phát triển hàng đầu, có vai trò định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước.
Ngày 12/2, tại TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ chủ trì Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Xúc tiến đầu tư vùng.
Hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và đẩy mạnh liên kết vùng
Công bố Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết: Để thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 8/2/2023 về Chương trình hành động của Chính phủ nhằm tạo sự thống nhất cao, nâng cao nhận thức và cụ thể hóa mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nêu tại Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Để thực hiện Nghị quyết 30-NQ/TW, Chính phủ đề ra 21 mục tiêu cụ thể và 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm: Công tác quán triệt, tuyên truyền, phổ biến thông tin, tạo sự thống nhất, đồng thuận của xã hội trong xây dựng, tổ chức thực hiện và triển khai các chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị; Hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và liên kết vùng; Phát triển kinh tế vùng; Phát triển bền vững hệ thống đô thị bền vững và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; Phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; Phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân; Quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại; Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.
Chương trình hành động của Chính phủ cũng đã đề ra 36 nhiệm vụ cụ thể và 20 dự án kết cấu hạ tầng và phân công cụ thể cho các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện, có lộ trình thời gian thực hiện cụ thể.
Chương trình hành động của Chính phủ đã đưa ra nhiều điểm mới, có tính đột phá trong phát triển của vùng, nhất là về định hướng phát triển, mục tiêu cụ thể, giải pháp rõ ràng, nhiệm vụ cụ thể; gắn với một số chủ trương lớn về phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học công nghệ, chuyển đổi số gắn với đổi mới sáng tạo và xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù phát triển vùng sẽ là cơ hội cho Vùng đồng bằng sông Hồng phát triển trong giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2045.
Liên kết phát triển – Đổi mới sáng tạo – Xanh và Bền vững
Tại hội nghị, các báo cáo và ý kiến tham luận nhấn mạnh tầm quan trọng, sự cần thiết của Nghị quyết 30-NQ/TW, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước đối với sự phát triển của vùng; đồng thời khẳng định Chương trình hành động của Chính phủ cụ thể hóa Nghị quyết 30-NQ/TW của Bộ Chính trị, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển Vùng đồng bằng sông Hồng là phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của vùng.
Các đại biểu cũng đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, sát thực tiễn và khả thi để triển khai Nghị quyết 30 và Chương trình hành động của Chính phủ; từ đó khơi thông nguồn lực, tháo gỡ điểm nghẽn nhằm đạt được các mục tiêu. Trong đó, tập trung phân tích các giải pháp phát triển đồng bộ mạng lưới giao thông vận tải vùng hiện đại, liên kết vùng và quốc tế; phát triển hạ tầng, chính sách, nguồn nhân lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; hoàn thiện thể chế phát triển các ngành công nghiệp, trong đó có ngành công nghiệp văn hóa và du lịch; phát triển bền vững kinh tế biển theo hướng tăng trưởng xanh; giảm thiểu ô nhiễm môi trường, phát triển xanh, bền vững Vùng đồng bằng sông Hồng; giải quyết việc làm, cơ cấu lại lao động...
Cùng với đó là các nhiệm vụ, giải pháp để thúc đẩy các đột phá phát triển của các địa phương trong vùng như: Phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế tam giác động lực phát triển Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh trở thành hạt nhân, trụ cột phát triển của vùng và cả nước; xây dựng khu vực Hải Phòng – Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển hiện đại, mang tầm quốc tế; xây dựng Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch quốc tế tầm cỡ và là trung tâm kinh tế biển phát triển bền vững kết nối với khu vực và thế giới, liên kết với các địa phương trong vùng; phát triển công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ hậu cần sau cảng ở Hải Dương; thu hút đầu tư và các KCN trên địa bàn tỉnh Hưng Yên; thu hút lao động có trình độ khoa học kỹ thuật, tay nghề chuyên môn cao làm việc tại tỉnh Bắc Ninh; phát triển các sản phẩm, dịch vụ văn hóa đặc trưng nền văn minh sông Hồng; thúc đẩy chuyển đổi số trong phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Thái Bình...
Phát biểu tham luận tại hội nghị, đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Ninh, nhấn mạnh: Từ góc nhìn của Quảng Ninh được đặt trong toàn vùng, tỉnh đề xuất 5 nhóm vấn đề. Đối với xây dựng, hoàn thiện các thể chế, cần xác định rõ hơn những đề án trọng tâm, trọng điểm có ý nghĩa tạo đột phá cho phát triển vùng, phát triển ngành gắn với tư duy mở, cơ chế vượt trội, tập trung nguồn lực nhà nước đủ tầm mức cho kích hoạt, kết nối nguồn lực tư nhân, nhờ đó tạo “tăng trưởng” lan tỏa trong toàn vùng. Đối với phát triển hạ tầng giao thông chiến lược, cần cụ thể hóa chủ trương cho phép các địa phương sử dụng ngân sách địa phương đầu tư cho các dự án vùng và liên vùng để có biện pháp, lộ trình cụ thể kết nối nguồn lực các địa phương trong vùng để đẩy nhanh tiến độ xây dựng, tốc độ hoàn thành các hạng mục có tính khớp nối, khắc phục các điểm nghẽn của “trục khuỷu giao thông” cản trở liên kết vùng nhằm tăng cường kết nối nông thôn - thành thị, vùng thấp - vùng cao, công nghiệp - dịch vụ, du lịch, nội vùng, liên vùng bảo đảm đồng bộ, hiện đại, liên thông, tổng thể.
Đối với phát triển các ngành kinh tế, chuyển đổi sang tăng trưởng xanh, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Xuân Ký đề nghị các bộ, ngành cần hỗ trợ, tạo điều kiện cho Quảng Ninh thực hiện tốt các định hướng là: Xây dựng Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch quốc tế tầm cỡ và là trung tâm kinh tế biển phát triển bền vững; giữ vững sự ổn định và phát triển ngành than theo quy hoạch bền vững hơn; tạo đột phá trong thu hút có chọn lọc nguồn vốn FDI thế hệ mới vào các KCN, KKT; chuyển đổi từ quy hoạch phát triển khu công nghiệp theo tư duy truyền thống sang phát triển “hệ sinh thái công nghiệp”; phát triển nông nghiệp sinh thái, đa giá trị gắn với xây dựng nông thôn hiện đại, nông dân văn minh góp phần phục vụ trực tiếp cho phát triển du lịch.
Đối với phát triển đô thị, kiên trì tổ chức đô thị theo định hướng quy hoạch không gian phát triển chung của toàn vùng. Quy hoạch, định hướng phát triển đô thị tuyến biên giới như Quảng Ninh phải tính toán đầy đủ yêu cầu hội nhập và cạnh tranh quốc tế. Phát triển các đô thị đồng bộ về kinh tế, xã hội, kết cấu hạ tầng, kiến trúc, nhà ở theo hướng đô thị xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai và dịch bệnh, nâng cao chất lượng sống của người dân làm hạt nhân cho liên kết vùng.
Đồng chí Nguyễn Xuân Ký cũng đề xuất xây dựng hệ sinh thái dân sinh hấp dẫn với chính sách khuyến khích và hỗ trợ vượt trội, môi trường sống tốt, các dịch vụ công có chất lượng cao để thu hút và giữ chân nhân tài, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyển dịch cơ cấu lao động, việc làm gắn với tăng quy mô và nâng cao chất lượng dân số. Liên kết, hợp tác với các địa phương trong vùng để phát huy lợi thế vùng, “phân vai” tốt hơn trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực các ngành nghề và giải quyết việc làm.
Vùng động lực phát triển hàng đầu của cả nước
Kết luận Hội nghị, đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, ngành liên quan tiếp thu ý kiến của các đại biểu để hoàn thiện thêm chương trình, kế hoạch và nâng cao hiệu quả, tính khả thi trong việc xây dựng, triển khai các cơ chế, chính sách phát triển vùng, các địa phương trong vùng.
Thống nhất với các báo cáo và ý kiến phát biểu, đồng thời nhấn mạnh một số nội dung trọng tâm, Thủ tướng dành nhiều thời gian phân tích về vị trí, vai trò, tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của vùng so với các vùng trong cả nước và một số lĩnh vực có thể so với khu vực và thế giới.
Với diện tích tự nhiên 21.278 km², (chiếm 6,41% tổng diện tích cả nước), vùng Đồng bằng sông Hồng là địa bàn chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, chủ quyền biển đảo; là cửa ngõ phía Bắc của đất nước và ASEAN về kết nối phát triển kinh tế, thương mại với Trung Quốc - thị trường rộng lớn nhất thế giới; là cầu nối quan trọng trong giao lưu kinh tế, văn hóa quốc tế.
Tăng trưởng kinh tế của vùng bình quân giai đoạn 2005-2020 đạt 7,94%/năm, cao hơn mức bình quân cả nước. Quy mô kinh tế tăng nhanh, đến năm 2020 gấp 7,75 lần so với năm 2005, chiếm 29,4% GDP cả nước. Vùng cũng có khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh, năng động với số lượng doanh nghiệp đứng thứ hai cả nước; địa bàn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đứng thứ hai cả nước, chiếm 31,4% tổng vốn FDI cả nước. Chương trình xây dựng Nông thôn mới đạt nhiều thành tựu nổi bật.
Dù đạt được nhiều thành tựu nhưng Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ băn khoăn, trăn trở về những khó khăn, thách thức còn tồn tại cản trở cho sự phát triển của vùng. Đó là KT-XH phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; các địa phương phát triển không đồng đều, phụ thuộc nhiều vào vốn và lao động; các ngành sản xuất với công nghệ hiện đại chiếm tỷ lệ thấp; hạ tầng giao thông thiếu kết nối, chủ yếu đường bộ. Hạ tầng du lịch còn yếu; hệ thống đô thị phát triển chưa đồng bộ; quản lý đất đai, tài nguyên môi trường còn bất cập; ô nhiễm môi trường ngày càng phức tạp. Phát triển văn hóa - xã hội, đào tạo nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng nhu cầu...
Nhấn mạnh quyết tâm biến vùng đất này thành vùng động lực phát triển hàng đầu, có vai trò định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước, Thủ tướng nêu rõ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo. Theo đó, cần quán triệt, thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp phát triển vùng theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; bám sát thực tiễn để triển khai công việc có trọng tâm, trọng điểm; phát huy mạnh mẽ các nguồn lực; kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài; thống nhất nhận thức và hành động, có giải pháp phù hợp, xử lý các vấn đề đặt ra đạt hiệu quả cao nhất. Cùng với đó, tăng cường phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm đi đôi với phân bổ nguồn lực phù hợp, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực thi, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Xây dựng hệ thống cơ quan hành chính đoàn kết, thống nhất, liêm chính, dân chủ; hành động thiết thực, hiệu lực, hiệu quả, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ; bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình.
Về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành liên quan và 11 địa phương trong vùng khẩn trương xây dựng Chương trình, Kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ. Tập trung hoàn thiện thể chế, quy hoạch vùng và chính sách liên kết vùng. Đẩy mạnh phát triển kinh tế vùng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế biển, dẫn dắt đổi mới mô hình tăng trưởng. Trong đó cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, công nghệ cao; phát triển nông nghiệp hiệu quả cao, bền vững; phát triển các ngành dịch vụ, thương mại theo hướng hiện đại, đa dạng; phát triển mạnh kinh tế biển theo hướng tăng trưởng xanh.
Thủ tướng cũng yêu cầu phát triển hệ thống đô thị hiện đại, thông minh, bền vững, theo mạng lưới và thích ứng với biến đổi khí hậu; ưu tiên nguồn lực xây dựng hệ thống giao thông đồng bộ, hiện đại, kết nối nội vùng, liên vùng và quốc tế. Phải phát triển vùng trở thành trung tâm KHCN gắn với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số hàng đầu của cả nước. Khuyến khích doanh nghiệp liên kết, đầu tư, phát triển KHCN. Xây dựng và phát triển các khu, trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, trí tuệ nhân tạo, khu công nghệ cao.
Phát huy vai trò là trung tâm hàng đầu cả nước về giáo dục, đào tạo, phát triển nhân lực chất lượng cao; phát triển văn hóa ngang tầm với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội; phát triển các sản phẩm, dịch vụ gắn với bảo tồn, phát huy giá trị di sản, bản sắc văn hóa; thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là đất đai, nước; thực hiện tốt các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo.
Thủ tướng cũng nhấn mạnh đến việc xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cấp bảo đảm chất lượng, số lượng, cơ cấu hợp lý, có chuyển giao, kế thừa; không ngừng củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, góp phần bảo đảm “phên dậu” về quốc phòng, an ninh.
Đánh giá cao sự có mặt của nhiều nhà đầu tư, đối tác phát triển trong nước và quốc tế tại hội nghị, Thủ tướng nhấn mạnh quan điểm "hợp tác và phát triển" trong thu hút đầu tư. Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành và các địa phương quán triệt tinh thần luôn sát cánh, chia sẻ, động viên, lắng nghe, giải quyết khó khăn, vướng mắc, tạo mọi thuận lợi cho doanh nghiệp, khó khăn ở đâu thì tháo gỡ ở đó, vướng mắc ở cấp nào thì cấp đó giải quyết. Tập trung nghiên cứu, hoàn thiện, tạo cơ chế chính sách đột phá để tăng cường thu hút đầu tư; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; tăng cường công khai, minh bạch, đối thoại, kịp thời giải quyết; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đón làn sóng đầu tư mới, nhất là các dự án có tính lan tỏa cao.
Đối với các nhà đầu tư, doanh nghiệp, đối tác phát triển, Thủ tướng đề nghị tiếp tục giữ vững niềm tin, nêu cao tinh thần hợp tác cùng có lợi, đẩy mạnh đầu tư vào vùng. Đồng thời, có chiến lược kinh doanh lâu dài, bền vững, thực hiện đúng cam kết đầu tư, thoả thuận hợp tác, tuân thủ luật pháp Việt Nam. Thực hiện tốt văn hóa doanh nhân, chế độ, chính sách đối với người lao động và đồng hành với chính quyền các cấp.
Thủ tướng mong muốn các doanh nghiệp, nhà đầu tư với tinh thần "Đã nói là phải làm. Đã cam kết phải thực hiện hiệu quả", bằng năng lực, trí tuệ, kinh nghiệm để chuyển hóa những tiềm năng, lợi thế của Vùng Đồng bằng sông Hồng thành những sản phẩm, công trình cụ thể, giá trị cụ thể, đo lường được, tạo động lực phát triển.
Nhóm PV
Liên kết website
Ý kiến ()