Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 02/11/2024 13:27 (GMT +7)
Thảo luận tại hội trường: Trí tuệ, trách nhiệm vì sự phát triển của tỉnh
Thứ 6, 08/07/2022 | 08:15:00 [GMT +7] A A
Tiếp tục chương trình làm việc ngày thứ 2, Kỳ họp thứ 9, HĐND tỉnh khóa XIV, sáng 8/7, tại Trung tâm Tổ chức hội nghị tỉnh, diễn ra phiên thảo luận tại hội trường.
Đồng chí Cao Tường Huy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh báo cáo công tác thực hiện xây dựng Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Thực hiện Luật Quy hoạch 2017, Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 05/02/2018 của Chính phủ về triển khai Luật Quy hoạch, Tỉnh Quảng Ninh đã khẩn trương tổ chức triển khai các bước lập quy hoạch tỉnh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo quy định. Nhiệm vụ Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được tổ chức lập, trình duyệt và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 479/QĐ-TTg ngày 7/4/2020.
Quá trình triển khai thực hiện việc lập, trình thẩm định Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh đã được triển khai đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành. Theo đó, bám sát nhiệm vụ quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Căn cứ Luật Quy hoạch, Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 5/2/2018 của Chính phủ, để đẩy nhanh tiến độ triển khai lập Quy hoạch tỉnh, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo rất quyết liệt công tác tổ chức lập Quy hoạch tỉnh đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo từ Tỉnh ủy đến UBND tỉnh và các sở, ban, ngành, địa phương trong tỉnh.
Cụ thể là Tỉnh ủy đã thành lập Ban Chỉ đạo công tác lập quy hoạch, trong đó: Trưởng ban là đồng chí Bí thư Tỉnh ủy - Chủ tịch HĐND tỉnh. UBND tỉnh đã thành lập Hội đồng quy hoạch tỉnh, thành lập Tổ công tác lập Quy hoạch tỉnh; thành lập 3 Tổ nghiên cứu về các địa phương giáp ranh với tỉnh Quảng Ninh để hỗ trợ công tác lập Quy hoạch tỉnh và mời các chuyên gia hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế, quy hoạch xây dựng, biển, hải đảo tham gia làm Cố vấn cao cấp Hội đồng và lựa chọn đơn vị tư vấn có uy tín, chất lượng hàng đầu thế giới trong lĩnh vực quy hoạch để lập Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh với nguồn kinh phí xã hội hóa.
Mặc dù, chịu ảnh hưởng khó khăn rất lớn do đại dịch Covid-19, nhưng với sự cố gắng của các cấp, các ngành, đã có 6 cuộc họp cấp Ban Chỉ đạo, 6 cuộc họp cấp Hội đồng quy hoạch tỉnh, hơn 60 cuộc họp Tổ công tác với đơn vị tư vấn, hơn 250 cuộc họp chuyên đề giữa các chuyên gia và các sở, ngành, địa phương được tổ chức, gần 40 cuộc khảo sát chuyên ngành tại các địa phương trên địa bàn tỉnh để triển khai hoàn thiện quy hoạch. Tỉnh cũng đã chủ động đăng ký làm việc trực tiếp để xin ý kiến 3 Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Xây Dựng, Tài nguyên và Môi trường.
Hồ sơ quy hoạch tỉnh Quảng Ninh đã được đăng tải công khai và tổ chức lấy ý kiến nhiều lần các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan và Ủy ban MTTQ tỉnh với tổng số ý kiến đã được tiếp thu, xử lý hơn 1.000 ý kiến tham gia. Việc tổ chức lấy ý kiến của cộng đồng dân cư, các tổ chức, cá nhân có quyền và lợi ích liên quan đến Quy hoạch tỉnh được tổ chức rộng rãi bằng nhiều hình thức phù hợp khác nhau, đảm bảo tuân thủ quy định Luật Quy hoạch...
Ngày 25/4/2022, hồ sơ Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được cơ quan lập quy hoạch của tỉnh trình Hội đồng thẩm định quy hoạch tỉnh thẩm định. Triển khai kế hoạch thẩm định quy hoạch tỉnh Quảng Ninh, ngày 14/6/2022, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức Hội thảo đánh giá môi trường chiến lược của Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, tham vấn ý kiến chuyên gia để thẩm định kết quả đánh giá môi trường chiến lược trong Quy hoạch tỉnh. Hội thảo nhận được ý kiến góp ý thẳng thắn, khách quan của các chuyên gia. Kết quả, biểu quyết 100% thông qua Báo cáo Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC).
Ngay sau đó, UBND tỉnh đã chỉ đạo cơ quan lập quy hoạch tỉnh phối hợp với các sở, ngành, địa phương và đơn vị tư vấn hoàn thiện Quy hoạch tỉnh theo ý kiến Hội đồng thẩm định quy hoạch.
Đồ án Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện lập, hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu các ý kiến của các Bộ, ngành Trung ương, UBND tỉnh, thành phố liên quan trong vùng và lân cận, các sở, ban, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân, tham vấn của MTTQ tỉnh, ý kiến của cộng đồng dân cư, Hội đồng thẩm định Quy hoạch tỉnh đảm bảo chất lượng, đã tích hợp được các quy hoạch cấp trên, các định hướng phát triển liên quan đến quy hoạch.
Hồ sơ được lập công phu, sát thực tiễn, đã được các Bộ, ngành Trung ương, Hội đồng thẩm định Quy hoạch tỉnh, các chuyên gia đánh giá cao. Căn cứ quy định quy trình lập Quy hoạch tỉnh, UBND tỉnh đã trình HĐND tỉnh xem xét, thông qua Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 để làm cơ sở triển khai việc trình phê duyệt Quy hoạch tỉnh theo quy định.
Đơn vị tư vấn báo cáo nội dung Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo đó, Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030 được xây dựng trên nền tảng kế thừa 7 Quy hoạch thời kỳ 2012-2020 để đảm bảo tăng trưởng bền vững đồng thời kết hợp các đột phá mới. Quy hoạch được lập bảo đảm sự kết nối; đổi mới liên thông, phục vụ người dân và doanh nghiệp; nâng cao công tác bảo vệ môi trường có trọng điểm; 3 phân vùng với mạng lưới liên thông; sản xuất gia tăng giá trị, công nghệ cao; sản xuất năng lượng bền vững; nền văn hóa mở, xã hội liên thông; ứng dụng công nghệ cao, mũi nhọn là thủy sản; du lịch phong phú. Phạm vi, ranh giới lập Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh bao gồm toàn bộ tỉnh Quảng Ninh với tổng diện tích tự nhiên trên đất liền 6.206,9 km2 và diện tích mặt biển khoảng 6.000 km2 (từ bờ ra đến 6 hải lý, do UBND tỉnh quản lý và sử dụng) với 13 đơn vị hành chính gồm: 4 thành phố (Hạ Long, Móng Cái, Cẩm Phả, Uông Bí); 2 thị xã (Quảng Yên, Đông Triều) và 7 huyện (Bình Liêu, Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà, Ba Chẽ, Vân Đồn, Cô Tô). Ranh giới tọa độ địa lý khoảng 106026' đến 108031' kinh độ Đông và từ 20040' đến 21039'49,8 vĩ độ Bắc.
Mục tiêu tổng quát quy hoạch đề ra là đến năm 2030, xây dựng, phát triển Quảng Ninh là một tỉnh tiêu biểu của cả nước về mọi mặt; tỉnh kiểu mẫu giàu đẹp, văn minh, hiện đại; một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện; trung tâm du lịch quốc tế, trung tâm kinh tế biển, cửa ngõ của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước; đô thị phát triển bền vững theo mô hình tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; là khu vực phòng thủ tỉnh vững chắc về quốc phòng - an ninh và phòng tuyến hợp tác, cạnh tranh kinh tế quốc tế. Tầm nhìn phát triển đến năm 2050, Quảng Ninh là tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, vùng đô thị lớn mang tầm khu vực và quốc tế, là một trong những đầu tàu thúc đẩy phát triển kinh tế quốc gia với động lực tăng trưởng chính là dịch vụ, du lịch, đổi mới sáng tạo, có cơ sở kinh tế vững chắc, sức cạnh tranh cao; người dân có mức thu nhập tương đương các nước phát triển; phát triển kinh tế hài hòa giữa các khu vực đô thị và nông thôn; đảm bảo vững chắc quốc phòng - an ninh.
Bên trong quá trình triển khai dự án lập Quy hoạch tỉnh, đơn vị tư vấn đã phối hợp với tất cả các sở, ban, ngành để xây dựng mục tiêu và chiến lược cho từng lĩnh vực: Công nghiệp chế biến chế tạo; công nghiệp sản xuất điện; công nghiệp khai khoáng; dịch vụ du lịch, dịch vụ thương mại, dịch vụ logistics; nông, lâm nghiệp và thủy sản; kinh tế biển.
Về tổ chức không gian phát triển: Một tâm, hai tuyến đa chiều, hai mũi đột phát, ba vùng động lực. Trong đó, tâm là TP Hạ Long; hai tuyến từ Hạ Long về phía Tây và phía Đông; hai mũi đột phá gồm Khu Kinh tế Vân Đồn và Khu Kinh tế Cửa khẩu Móng Cái; ba vùng động lực gồm vùng đô thị Hạ Long (Trung tâm tổng hợp đa ngành Hạ Long, Quảng Yên, Uông Bí, Đông Triều, Cẩm Phả), vùng đô thị Vân Đồn (Trọng tâm phát triển du lịch Vân Đồn, Cô Tô, Tiên Yên, Ba Chẽ), vùng đô thị Móng Cái (Trọng tâm phát triển kinh tế cửa khẩu, công nghiệp Móng Cái, Hải Hà, Đầm Hà, Bình Liêu).
Đơn vị tư vấn đã trình bày các phương án về phát triển hạ tầng giao thông. Trong đó, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông một cách đồng bộ, tăng cường kết nối giữa vùng đô thị trung tâm Hạ Long với tiểu vùng khác trên cơ sở phát huy tối đa các nguồn lực, lợi thế của tỉnh; đặc biệt chú trọng đến sự kết nối với các tỉnh lân cận, với Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cả nước và quốc tế. Ngoài ra, đơn vị tư vấn cũng làm rõ các phương án về: Phát triển hạ tầng kỹ thuật; phát triển hạ tầng xử lý chất thải; phát triển hạ tầng xã hội; quy hoạch sử dụng đất; công nghiệp chế biến chế tạo; công nghiệp sản xuất điện; công nghiệp khai khoáng; dịch vụ du lịch; dịch vụ thương mại; dịch vụ logistics; chăm sóc sức khỏe; an sinh xã hội; văn hóa, thể thao; quốc phòng an ninh… Trong đó, các đột phá phát triển được xác định gồm: Xây dựng hệ sinh thái dân sinh hấp dẫn với chính sách khuyến khích và hỗ trợ vượt trội để thu hút nhân tài, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyển dịch cơ cấu lao động việc làm; tăng nhanh quy mô và nâng cao chất lượng dân số.
Đơn vị tư vấn đã trình bày các phương án về phát triển hạ tầng giao thông. Trong đó, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông một cách đồng bộ, tăng cường kết nối giữa vùng đô thị trung tâm Hạ Long với tiểu vùng khác trên cơ sở phát huy tối đa các nguồn lực, lợi thế của tỉnh; đặc biệt chú trọng đến sự kết nối với các tỉnh lân cận, với Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cả nước và quốc tế. Ngoài ra, đơn vị tư vấn cũng làm rõ các phương án về: Phát triển hạ tầng kỹ thuật; phát triển hạ tầng xử lý chất thải; phát triển hạ tầng xã hội; quy hoạch sử dụng đất; công nghiệp chế biến chế tạo; công nghiệp sản xuất điện; công nghiệp khai khoáng; dịch vụ du lịch; dịch vụ thương mại; dịch vụ logistics; chăm sóc sức khỏe; an sinh xã hội; văn hóa, thể thao; quốc phòng an ninh…
Xây dựng các khu công nghiệp, các khu kinh tế có vị trí phù hợp, có quy mô đủ lớn, đầy đủ điều kiện về hạ tầng, kết nối thuận lợi, nhanh chóng, chi phí thấp và các chính sách khuyến khích, hỗ trợ có sức cạnh tranh cao để thu hút đầu tư mở rộng, đẩy nhanh tăng trưởng công nghiệp chế biến, chế tạo và công nghiệp sản xuất điện từ nguồn năng lượng xanh hơn như LNG, năng lượng tái tạo, trong đó, ưu tiên thu hút các nhà đầu tư chiến lược có khả năng dẫn dắt, hình thành hệ sinh thái các ngành kinh tế trọng điểm. Chuyển đổi số toàn diện, trọng tâm là phát triển mạnh kinh tế số tạo nền tảng thúc đẩy phát triển và tạo ra các giá trị tăng trưởng mới trong các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội của tỉnh. Phát triển kinh tế biển bền vững, đa ngành, đa lĩnh vực, năng suất, chất lượng và hiệu quả, có sức cạnh tranh cao. Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, đa dụng, gồm cả hạ tầng số, bảo đảm liên thông tổng thể, thúc đẩy liên kết nội vùng, liên kết vùng gắn với các hành lang, vành đai phát triển kinh tế, kết nối quốc tế thuận lợi để Quảng Ninh trở thành một trung tâm logistics của vùng và cả nước. Phát triển hệ thống đô thị hiện đại, thông minh, bản sắc và bền vững với quy mô lớn để nâng cấp chất lượng sống của người dân, thu hẹp nhanh khoảng cách giàu nghèo và chênh lệch vùng miền trong tỉnh, thu hút dân cư từ nơi khác đến; phát triển kinh tế đô thị hiệu quả, nhất là đô thị du lịch chất lượng cao; thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí dựa trên nền tảng công nghiệp đổi mới sáng tạo và phát huy giá trị văn hóa, con người và thiên nhiên đậm bản sắc Quảng Ninh.
Đồng chí Bùi Thị Hương, Trưởng Ban Kinh tế - Ngân sách trình bày tóm tắt kết quả thẩm tra về Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Qua thẩm tra, Ban Kinh tế - Ngân sách cơ bản đồng tình với chủ trương thông qua Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và đề nghị quan tâm đến một số nội dung sau: Tiếp tục nghiên cứu rà soát, cập nhật các định hướng phát triển tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030; Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, và các định hướng phát triển được xác định tại các văn kiện, văn bản của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các dự án cấp quốc gia, vùng trên địa bàn tỉnh đã được xác định để cập nhật vào quy hoạch.
Phân tích, đánh giá cụ thể để lựa chọn các ngành động lực, chủ đạo cho phát triển của tỉnh trong thời kỳ quy hoạch trên cơ sở phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh phù hợp với chiến lược phát triển các ngành, lĩnh vực trong nước và xu hướng phát triển thế giới; bổ sung các đột phá về lĩnh vực du lịch, khoa học và công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo để tăng năng suất và nâng cao giá trị sản phẩm; tập trung xây dựng và phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Xem xét đánh giá xu thế biến động sử dụng đất giai đoạn 2011-2015, 2016-2020; kết quả thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất kỳ trước, kết quả đánh giá tiềm năng đất đai để bố trí cho phù hợp đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của địa phương và đảm bảo chỉ tiêu sử dụng đất do quốc gia phân bổ.
Nghiên cứu đánh giá thực trạng phát triển đô thị và nông thôn, các khu chức năng, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trên địa bàn tỉnh; nhất là thực trạng phát triển các khu dân cư, đô thị mới tại các đô thị lớn trên địa bàn tỉnh trong những năm qua đối chiếu với chương trình phát triển đô thị của toàn tỉnh đã được phê duyệt để thấy được những tồn tại, hạn chế, bước phát triển nóng, vượt quá nhu cầu chỗ ở của người dân, gây lãng phí nguồn lực đất đai, nguồn lực đầu tư xã hội.
Đồng thời, đánh giá tác động của việc đô thị hóa tới chất lượng môi trường và các khu vực dân cư nông thôn ven các đô thị. Rà soát tỷ lệ đô thị hóa để đảm bảo sự phù hợp với thực tế phát triển tại địa phương. Trên cơ sở đó, tổ chức sắp xếp không gian các hoạt động KT-XH, quốc phòng, an ninh, phát triển kết cấu hạ tầng, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh trong thời kỳ quy hoạch; phân bổ chỉ tiêu về đô thị hóa cho từng vùng.
Đánh giá tác động, ảnh hưởng của thiên tai đối với phát triển KT-XH thời kỳ trước để làm cơ sở đề xuất, lồng ghép nội dung phòng, chống thiên tai vào quy hoạch thời kỳ 2021-2030 cho phù hợp; bổ sung giải pháp phòng, chống lũ quét, sạt lở đất đối với các vùng có nguy cơ cao; bố trí quỹ đất để sắp xếp, ổn định dân cư vùng thiên tai; có biện pháp tăng cường độ che phủ rừng phòng hộ đầu nguồn trên các lưu vực sông và hồ chính để đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt; có phương án bảo vệ đa dạng sinh học hệ sinh thái biển, các khu rừng ngập mặn ở cửa sông ven biển và sinh thái vùng đồng bằng tại các huyện ven biển.
Tiếp tục rà soát, phân tích, đưa ra luận chứng cụ thể đối với danh mục dự án của từng ngành, lĩnh vực. Phân tích làm rõ tính hữu hiệu của các giải pháp huy động vốn cho phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng, đặc biệt là vốn FDI,... đưa ra luận cứ có cơ sở về khả năng cân đối nguồn lực từ ngân sách tỉnh Quảng Ninh để thực hiện các nhiệm vụ đề ra; xác định cơ cấu nguồn vốn để triển khai các chương trình, dự án ưu tiên đầu tư đảm bảo tính khả thi.
Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh gợi ý thảo luận về quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh nhấn mạnh về ý nghĩa của bản quy hoạch đối với sự phát triển của tỉnh, coi đây là không chỉ là sự sắp xếp, phân bổ không gian để tạo động lực phát triển mà còn là tính kế thừa xuyên suốt. Do đó, bản quy hoạch là sản phẩm quan trọng của kỳ họp lần này cần được xem xét, phân tích kỹ lưỡng. Chính bởi Quảng Ninh làm tốt quy hoạch và triển khai thực hiện đúng như quy hoạch, tỉnh đã tổ chức thành công mô hình không gian “một tâm, hai tuyến, đa chiều, hai mũi đột phá” và Quảng Ninh được các nhà đầu tư tin cậy, lựa chọn làm điểm đến hợp tác. Cũng nhờ đó, tỉnh phát triển đúng hướng, KT-XH không ngừng được đi lên, đời sống nhân dân ngày càng ấm no, tỉnh cũng khẳng định vị trí của mình, trở thành đầu tàu kinh tế quan trọng của vùng, khu vực và quốc gia.
Tiếp nối quan điểm về quy hoạch của những thời kỳ trước, để Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 phát huy tốt giá trị, tạo đột phá để tỉnh phát triển hơn nữa, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh đề nghị các vị đại biểu HĐND tỉnh xem xét, thảo luận kỹ những nội dung:
Thứ nhất là trên cơ sở phân tích đánh giá điều kiện đặc thù của địa phương, quy hoạch cần làm nổi bật những giải pháp để tỉnh phát huy tiềm năng, lợi thế về kinh tế biển; lợi thế, cơ hội để tạo đột phá về liên kết phát triển giao thương kinh tế; khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh về du lịch, dịch vụ tổng hợp.
Thứ hai, đánh giá rõ thực trạng phát triển KT-XH, hiện trạng sử dụng đất đô thị, nông thôn và hiện trạng phát triển trong 10 năm qua của tỉnh để có định hướng, giải pháp phát huy tốt nguồn lực đất đai, không lãng phí nguồn lực xã hội, nguồn lực đất đai, tạo ra cơ hội để phát triển.
Thứ ba, quy hoạch phải tập trung vào các giải pháp phát triển bền vững, hài hòa giữa phát triển KT-XH, AN-QP. Trong dự thảo, trong quy hoạch có đề cập. Một là 3 đột phá trong đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đại hội XV Đảng bộ tỉnh; thứ hai là phát triển kinh tế biển; thứ ba là công nghiệp, chế biến, chế tạo gắn với các KCN, KKT; thứ 4 là đô thị hóa gắn với kinh tế đô thị; thứ 5 là hệ sinh thái dân sinh hấp dẫn với sự đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đô thị để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với tăng dân số để tạo ra nguồn lực mới cho nền kinh tế. Đồng chí đề nghị các đại biểu tập trung thảo luận sâu vào phát triển kinh tế biển; phát triển công nghiệp chế biến chế tạo gắn với thu hút FDI. Về đô thị hóa và kinh tế đô thị, cần xác định rõ mục tiêu chất lượng cuộc sống của người dân đô thị và năng lực cạnh tranh kinh tế đô thị là hàng đầu. Về phương án phát triển các ngành quan trọng trên địa bàn, phương án tổ chức hoạt động kinh tế xã hội, đặc biệt là phương án tổ chức không gian hoạt động kinh tế xã hội, kỳ này Quy hoạch có 3 đột phá, gồm: Quy hoạch khai thác sử dụng bền vững không gian biển đảo; không gian núi rừng; mô hình tổ chức không gian mới dựa trên sự phát triển của tư duy 1 tâm, 2 tuyến đa chiều, 2 mũi đột phá và 3 vùng động lực. Cùng với đó, cần tập trung nghiên cứu, cho ý kiến về vấn đề đất đai, bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học, thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
Bản quy hoạch mẫu mực từ cách làm việc, đóng góp trí tuệ đến việc lấy ý kiến của các nhà khoa học trong và ngoài nước với hơn 1.500 ý kiến, hàng trăm cuộc họp trong điều kiện dịch bệnh. Vì vậy, đề nghị các đại biểu thảo luận, cho ý kiến để HĐND tỉnh thông qua, từ đó còn nghiên cứu sớm nhằm bố trí, sử dụng nguồn lực và định hình tư duy phát triển trong các quyết sách.
Đại biểu Nguyễn Văn Hồi, Tổ đại biểu Quảng Yên: Cần định hướng rõ tiềm năng, lợi thế phát triển về kinh tế biển, kinh tế số.
Để góp phần bổ sung hoàn thiện Quy hoạch tỉnh, đề nghị phân tích, đánh giá để làm rõ hơn những xu thế mới, yếu tố mới trong nước, quốc tế có thể hình thành nên những cơ hội, đột phá mới, giúp thúc đẩy phát triển KT-XH của tỉnh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đặc biệt, cần lưu ý tới xu hướng toàn cầu về phát triển kinh tế biển, kinh tế số đang tạo động lực phát triển cho hầu hết các địa phương, quốc gia. Nhất là khi Quảng Ninh có rất nhiều lợi thế cạnh tranh cả về kinh tế biển, kinh tế số, hoàn toàn có thể trở thành cơ hội để phát triển đột phá.
Để đảm bảo giữ vững mục tiêu tăng trưởng kinh tế về lâu dài, xây dựng Quảng Ninh thành trung tâm kinh tế biển của cả nước, là cửa ngõ trung chuyển của khu vực, cần phải phân tích, đánh giá rõ về điều kiện tự nhiên, hiện trạng khai thác kinh tế biển của tỉnh hiện nay. Trong đó bao gồm khai thác cảng biển, khai thác du lịch biển, hoạt động đánh bắt, nuôi trồng thủy, hải sản..., từ đó có giải pháp định hướng phát triển kinh tế biển bền vững. Cùng với đó là xác định rõ khả năng liên kết không gian kinh tế bờ, kinh tế biển, kinh tế đảo, cả trong phạm vi của tỉnh và với các tỉnh miền núi khu vực Đông Bắc, ven biển Đồng bằng Bắc Bộ, Duyên hải dọc theo hành lang kinh tế.
Quy hoạch tỉnh cũng cần tổ chức, phân vùng không gian sử dụng biển, đảo, vùng ven biển, đáy biển.. để có phương án hiệu quả nhất cho từng mục đích phát triển KT-XH như: Phát triển du lịch, cảng biển, khai thác, nuôi trồng thủy hải sản, quốc phòng an ninh, các vùng cấm khai thác, vùng cần bảo vệ để giữ gìn hệ sinh thái... Riêng các vùng bờ biển cũng cần xác định cụ thể về những loại hình dễ bị tổn thương như: bãi bồi, vùng xói lở, rừng ngập mặn phòng hộ, vùng đệm... để có biện pháp bảo vệ phù hợp. Còn với các đô thị lớn, cần có định hướng để đảm bảo sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên ven biển, xây dựng mô hình đô thị đẹp, hiện đại, thân thiện với môi trường, bảo tồn sinh thái biển; không san bằng đồi núi, lấp sông, lấp biển để phát triển đô thị.
Để đến năm 2030, kinh tế số đóng góp 30% tăng trưởng GRDP, cần thiết phải làm rõ hơn phương án phân bổ hạ tầng, phát triển không gian, chuyển đổi hạ tầng công nghệ thông tin hiện có thành hạ tầng số, ứng dụng công nghệ điện toán đám mây... Đồng thời bổ sung các phương án khắc phục toàn bộ các vùng lõm sóng thông tin di động tại các xã vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; phát triển thương mại điện tử; hiện đại hóa hoạt động các cửa khẩu biên giới.
Đại biểu Nguyễn Hồng Dương, Tổ Đại biểu TP Hạ Long: Cần nghiên cứu các giải pháp phát triển nguồn lực đất đai, khẩn trương triển khai ngay quy hoạch vùng huyện, đảm bảo định hướng phát triển chung.
Từ năm 2012 đến nay, Quảng Ninh là một trong những địa phương đi đầu trong công tác lập quy hoạch trên cả nước. Là tỉnh đi đầu trong lập 7 quy hoạch chiến lược trở thành căn cứ khoa học để chính quyền các cấp tỉnh Quảng Ninh sử dụng để chỉ đạo, điều hành, quản lý quy hoạch tạo động lực phát triển, từng bước thay đổi diện mạo tỉnh Quảng Ninh trong những năm qua.
Tuy nhiên, các xu thế thời đại, quy định của pháp luật đã đặt ra những yêu cầu cấp thiết, hiệu lực, hiệu quả hơn đối với công tác quy hoạch tỉnh Quảng Ninh nói riêng và cả nước nói chung. Quy hoạch của các địa phương được tổ chức lại đảm bảo nguồn lực cho xây dựng quy hoạch được tiết kiệm, hiệu quả hơn, giảm thiểu sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các địa phương.
Trước đây, toàn tỉnh có hơn 100 quy hoạch của các cấp, các ngành, các lĩnh vực khác nhau với tổng kinh phí cho giai đoạn 2012-2018 gần 1.000 tỷ đồng. Đến nay, ngoài những quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành thì những quy hoạch khác đều được thực hiện trong quy hoạch tỉnh Quảng Ninh được báo cáo trong cuộc họp HĐND tỉnh ngày hôm nay.
Tham gia vào Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, đại biểu Nguyễn Hồng Dương cho rằng: Quy hoạch đã bám sát và kế thừa định hướng phát triển của tỉnh Quảng Ninh. Cấu trúc quy hoạch bố cục hợp lý, khoa học, các số liệu được đánh giá tương đối đầy đủ, trích dẫn phong phú từ các nguồn tin cậy. Việc triển khai quy hoạch được đảm bảo theo yêu cầu. Đặc biệt, Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh đã mời được các chuyên gia tư vấn hàng đầu nước ngoài tham gia xây dựng. Tuy nhiên, Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh cần bổ sung một số nội dung như: Cần nghiên cứu các giải pháp phát triển nguồn lực đất đai, khẩn trương triển khai ngay quy hoạch vùng huyện, đảm bảo định hướng phát triển chung; thực hiện đổi mới phù hợp với thực tiễn theo quy định của Luật và quy hoạch của quốc tế; quá trình triển khai thực hiện đảm bảo theo hướng đồng bộ; xây dựng chương trình hành động cụ thể; chủ động xúc tiến đầu tư tổ chức, giới thiệu quảng bá tiềm năng, thế mạnh của địa phương với các nhà đầu tư; yêu cầu đơn vị tư vấn hỗ trợ tỉnh Quảng Ninh hỗ trợ xúc tiến đầu tư triển khai quy hoạch.
Đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà, Phó trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh: Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh đã thể hiện được chiến lược phát triển toàn diện của tỉnh với tổ chức không gian, các mục tiêu và giải pháp cụ thể để định hướng và xây dựng Quảng Ninh đến năm 2030 là tỉnh giàu đẹp, văn minh, hiện đại...
Đại biểu nhấn mạnh, Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được xây dựng phù hợp với sự phát triển của tỉnh Quảng Ninh nói riêng và của đất nước nói chung, phù hợp định hướng phát triển của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh khóa XV, nhiệm kỳ 2020 – 2025. Nội dung quy hoạch tỉnh Quảng Ninh đã tổ chức tiếp thu, lấy ý kiến các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các cấp của địa phương liên quan, các tổ chức, cộng đồng, các chuyên gia, các cá nhân có liên quan.
Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh đã thể hiện được chiến lược phát triển toàn diện của tỉnh với tổ chức không gian, các mục tiêu và giải pháp cụ thể để định hướng và xây dựng Quảng Ninh đến năm 2030 là tỉnh giàu đẹp, văn minh, hiện đại; là trung tâm du lịch, kinh tế biển, là cửa ngõ vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và cả nước; là đô thị phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, là khu vực hợp tác và cạnh tranh kinh tế quốc tế.
Đại biểu đồng tình và thống nhất cao với chủ trương thông qua Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn 2050 đồng thời đề nghị quan tâm tới 1 số nội dung.
Trong đó, về phương pháp lập quy hoạch, cần tiếp tục đánh giá sâu sắc kết quả thực hiện 7 quy hoạch chiến lược mà Quảng Ninh đã xây dựng, triển khai và được phê duyệt cách đây 10 năm để tích hợp và tiếp tục thực hiện, nhưng ở tầm cao mới, tổng thể hơn. Cập nhật các định hướng phát triển tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021 – 2030); phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 – 2025 và các định hướng phát triển theo chủ trương, nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các quy hoạch cấp quốc gia.
Đại biểu thống nhất với việc giảm, giãn khai thác khoáng sản, bởi ngành than đã có sự phát triển lâu đời và giữ vị trí trung tâm của phát triển, đã và đang có những đóng góp to lớn, tích cực vào GRDP và ngân sách thu nội địa của tỉnh nhưng hiện nay tỉnh Quảng Ninh đang có cơ hội phát triển khác, nên cần để dành lại nguồn tài nguyên quý giá này cho thế hệ mai sau. Tuy nhiên, cũng cần phải có lộ trình chuyển đổi một cách hợp lý, bắt đầu từ quy hoạch. Giảm khai khoáng, đồng nghĩa với việc giảm, dừng phát triển hệ thống nhà máy nhiệt điện; cần bổ sung quy hoạch để giải quyết việc làm cho khoảng 100.000 lao động, đời sống của 1/3 dân số của tỉnh; cần có kế hoạch chuyển đổi cơ cấu lao động, nghề nghiệp phù hợp, trên cơ sở Quy hoạch được phê duyệt. Đồng thời, cần tính toán bổ sung quy hoạch xây dựng, du lịch, giao thông để sử dụng có hiệu quả nguồn đất đá thải mỏ, các khai trường, mỏ đóng cửa, các cảng bến phục vụ vận chuyển than kinh doanh than... khi không còn nhu cầu sử dụng. Bổ sung quy hoạch điện khí, điện gió, năng lượng để thay thế kịp thời nhiệt điện. Trước mắt, đề nghị ngành than cần tiếp tục ứng dụng công nghệ, đầu tư máy móc thiết bị, đào tạo, tập huấn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu khai thác xuống sâu, đảm bảo an toàn, gắn với bảo vệ môi trường.
Về Quy hoạch hệ thống giao thông của tỉnh, đại biểu cho rằng nội dung này rất chi tiết, đầy đủ và khá đồng bộ. Có thể nói, Quy hoạch lĩnh vực giao thông của tỉnh sẽ sớm được hiện thực hóa nhất và tính khả thi cao. Tuy nhiên, cần quan tâm, nghiên cứu, bổ sung cảng tàu du lịch quốc tế, đón du thuyền phục vụ phát triển du lịch; hầm đường bộ qua Vịnh Cửa lục trước đây, HĐND tỉnh đã có chủ trương, sau đó điều chỉnh; đường sắt cao tốc nội thành, tàu điện ngầm cao tốc... điều chỉnh tắc nghẽn giao thông ở khu đô thị, khi Quảng Ninh sẽ đạt tỷ lệ đô thi hóa lên 75%. Giao thông kết nối các tuyến đảo, cần có tiêu chí cụ thể hơn để quy hoạch loại hình giao thông cho phù hợp, tránh việc khoảng cách giữa các xã đảo, điểm đảo gần thì quy hoạch giao thông đường thủy (như một số xã đảo, điểm đảo thuộc Vân Đồn, Cô Tô); các điểm đảo có khoảng cách xa thì quy hoạch giao thông đường bộ hoặc cầu (như đồ án Quy hoạch giao thông đường bộ, cầu giữa các đảo Đầm Hà với Đảo Cái Chiên, và Vĩnh Trung).
Đại biểu Hoàng Bá Nam, Tổ đại biểu Móng Cái, tham gia 4 nội dung trong Quy hoạch tỉnh.
Phát biểu thảo luận, đại biểu Hoàng Bá Nam, Tổ đại biểu Móng Cái đồng ý với việc HĐND tỉnh thông qua Nghị quyết, giao UBND tỉnh hoàn thiện hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo quy định. Đồng thời, khẳng định việc triển khai lập quy hoạch của tỉnh đã bài bản, nghiên cứu kỹ lưỡng, căn cơ, khoa học, có tầm nhìn chiến lược. Do đó, đồ án quy hoạch đảm bảo chất lượng, các nội dung đều đảm bảo tầm nhìn chiến lược, phù hợp với sự phát triển.
Thảo luận về Quy hoạch tỉnh, đại biểu Hoàng Bá Nam đã tham gia vào 4 nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, việc phát hiện 5 mâu thuẫn trong sự phát triển là phù hợp. Tuy nhiên từ thực tiễn cho thấy vấn đề nguồn nhân lực là yếu tố đặc biệt quan trọng. Cá nhân đại biểu cho thấy, mâu thuẫn thứ 6 chính là mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển nhanh, bền vững với sự thiếu hụt nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Để giải quyết bài toán này, cần phải bổ sung, đánh giá, đưa ra các giải pháp căn cơ, chiến lược, đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh.
Thứ hai, cần xác định các yếu tố đóng góp vào sự tăng trưởng của tỉnh trong thời gian tới. Trong đó sẽ có 3 trụ cột đóng góp vào tăng trưởng là kinh tế đô thị, kinh tế biển và kinh tế số. Trong 3 nhóm này, sẽ phát triển thêm công nghiệp chế biến, hai là phát triển dịch vụ cảng biển logistics và ba là du lịch chất lượng cao. Đây sẽ là 3 nhóm đóng góp rất lớn và quan trọng vào sự phát triển của tỉnh.
Thứ ba, quy hoạch đã xác định đến năm 2030, Quảng Ninh là thành phố trực thuộc Trung ương. Trong đó có quy hoạch xây dựng vùng liên huyện, vùng huyện. Tuy nhiên, trong quy hoạch chưa đề cập đến cốt nền xây dựng. Thực tế, nhiều đô thị sau khi hình thành vẫn bị ngập lụt, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân dân. Do đó, đề nghị tỉnh cần có định hướng quy hoạch xây dựng phù hợp với khu vực hiện hữu và ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Thứ tư, vùng đô thị Móng Cái được xác định gồm TP Móng Cái, huyện Hải Hà, huyện Đầm Hà, huyện Bình Liêu. Trong đó, TP Móng Cái được xác định là trung tâm của vùng. Bên cạnh việc xác định các yếu tố động lực cho sự phát triển trong đồ án quy hoạch, tỉnh cần tập trung phát triển đô thị công nghiệp tại khu vực đồng bằng ven biển và tại các cửa khẩu. Đồng thời cần tập trung đầu tư hạ tầng cảng biển, hạ tầng logistics cửa khẩu, hạ tầng du lịch, dịch vụ, thương mại, công nghiệp chế biến chế tạo; tạo sự kết nối đồng bộ giữa Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái với Khu thí điểm khai phát trọng điểm quốc gia Đông Hưng (Trung Quốc). Đồng chí cho rằng, đây sẽ là động lực phát triển của vùng đô thị Móng Cái.
Đại biểu Nguyễn Văn Công, Bí thư thị ủy Đông Triều, Tổ đại biểu Đông Triều: Nhất trí HĐND tỉnh thông qua Quy hoạch tỉnh để triển khai thực hiện các bước tiếp theo.
Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được xây dựng đảm bảo trình tự quy định, thực hiện công phu, tỉ mỉ, khoa học, khách quan. Quá trình xây dựng Quy hoạch đơn vị chủ trì đã lắng nghe tiếp thu ý kiến từ cơ sở, sát thực tiễn và có tính khả thi cao. Tôi nhất trí HĐND tỉnh thông qua quy hoạch để triển khai thực hiện các bước tiếp theo.
Trong Quy hoạch, theo đó Đông Triều nằm trong hành lang phía Tây xuất phát từ Hạ Long đến Đông Triều hướng tới đồng bằng sông Hồng và thủ đô Hà Nội; Nằm trong phân vùng đại đô thị Hạ Long mở rộng (Hạ Long, Cẩm Phả, Quảng Yên, Uông Bí, Đông Triều). Trong tuyến hành lang phát triển này tập trung ưu tiên phát triển chuỗi đô thị - công nghiệp xanh, công nghiệp sạch, công nghệ cao và du lịch văn hóa, lịch sử, tâm linh; trong đó Khu kinh tế ven biển Quảng Yên là hạt nhân, động lực tăng trưởng mới của tuyến phía Tây và của tỉnh; tăng cường liên kết TP Hạ Long với động lực phát triển mới là Khu kinh tế ven biển Quảng Yên, đồng thời tăng cường liên kết theo tuyến phía Tây đến Đông Triều và Thủ đô Hà Nội.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên chúng tôi đề nghị một số nội dung như sau: Về lộ trình phát triển đô thị, đề nghị quy hoạch cần xác định lộ trình cụ thể đối với từng địa phương về lộ trình phát triển đô thị hóa, nhất là các địa phương nâng cấp đô thị và thành lập thành phố; tránh để các mục tiêu đến cuối kỳ quy hoạch gây áp lực triển khai thực hiện.
Về phát triển khu kinh tế ven biển Quảng Yên, cần nghiên cứu mở rộng không gian khu kinh tế Quảng Yên lên phía Uông Bí, Đông Triều, bám theo đường ven sông đến khu công nghiệp Đông Triều 2 nhằm khai thác quỹ đất 2 bên đường ven sông, tạo kết nối không gian giữa các khu công nghiệp với khu vực dịch vụ cảng biển, logistics Quảng Yên, đảm bảo đồng bộ về chính sách, nâng cao tính cạnh tranh đối với các khu công nghiệp ở quy hoạch đến các tỉnh lân cận.
Về chỉ tiêu sử dụng đất các khu công nghiệp, đề nghị trong quá trình triển khai thực hiện Quy hoạch các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh, hàng năm cần rà soát các dự án đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp chậm tiến độ, có tỷ lệ lấp đầy thấp để điều chỉnh chỉ tiêu diện tích sử dụng đất cho các khu công nghiệp mới, có điều kiện thu hút nhà đầu tư, phù hợp với quy hoạch để phát huy hiệu quả đầu tư.
Về Quy hoạch mạng lưới giao thông đường bộ, chúng tôi thống nhất với các nội dung Quy hoạch mạng lưới giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh, tuy nhiên để đảm bảo liên kết vùng theo mục tiêu đề ra, đề nghị bổ sung Quy hoạch các tuyến đường: Tuyến đường nối Quốc lộ 18 (thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) với cao tốc Hà Nội - Hải Phòng (qua huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương) để tạo tuyến giao thông kết nối giữa cao tốc Hà Nội - Hải Phòng hiện tại và cao tốc Nội Bài - Hạ Long trong tương lai, thời gian hoàn thành trước năm 2025; Tuyến đường nối Quốc lộ 37 (từ hồ Côn Sơn) với Đường ven sông từ cao tốc Hải Phòng - Hạ Long đến thị xã Đông Triều nhằm kết nối Đường ven sông từ cao tốc Hải Phòng - Hạ Long đến thị xã Đông Triều với đường Vành đai 5 - CT.39 để kết nối trực tiếp Đông Triều với Chí Linh, đồng thời trục giao thông này sẽ kết nối Quảng Ninh với 8 tỉnh và thành phố trong khu vực (gồm: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Bắc Giang, Hải Dương, Thái Bình, Hà Nam, Hòa Bình).
Về phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa nhà Trần, đề nghị bổ sung giải pháp thúc đẩy mở rộng liên kết vùng trong việc phát huy các giá trị văn hóa lịch sử du lịch tâm linh Nhà Trần giữa các địa phương: Quảng Yên, Uông Bí, Đông Triều (Quảng Ninh) và Côn Sơn, Kiếp Bạc – Chí Linh (Hải Dương). Sớm hoàn thiện hồ sơ khoa học Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử (Quảng Ninh, Bắc Giang và Hải Dương) trình UNESCO công nhận di sản thế giới.
Về định hướng phát triển nhà ở, đề nghị bổ sung giải pháp khuyến khích phát triển nhà ở công nhân bao gồm cả nhà ở xã hội, khu lưu trú đáp ứng nhu cầu cho các nhóm đối tượng là công nhân và người có thu nhập thấp. Đặc biệt có các chính sách, giải pháp phát triển khu lưu trú cho công nhân các khu công nghiệp để đảm bảo người lao động ổn định sản xuất, đời sống, thu hút lao động từ các địa bàn đến làm việc.
Đại biểu Nguyễn Việt Dũng, Bí thư Huyện ủy Cô Tô, tổ đại biểu Vân Đồn – Cô Tô: Tính toán mở rộng liên kết giao thông các tuyến đảo để phát huy lợi thế, phát triển du lịch, dịch vụ.
Đại biểu Nguyễn Việt Dũng, Bí thư Huyện ủy Cô Tô, Tổ đại biểu Vân Đồn – Cô Tô cơ bản đồng tình với dự thảo Nghị quyết và thống nhất đề nghị HĐND tỉnh thông qua Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Để quy hoạch phát huy hiệu quả, đại biểu cũng góp ý một số nội dung liên quan đến giải pháp phát triển vùng biển; tính toán mở rộng liên kết giao thông các tuyến đảo để phát huy lợi thế, phát triển du lịch, dịch vụ. Cùng với đó, đại biểu cũng cho rằng, quy hoạch cần có thêm giải pháp xử lý rác thải đại dương, xử lý ô nhiễm do vận tải tàu biển gây ra cho các vùng biển. Ngoài ra, quy hoạch cần xem xét, tính kĩ lại việc đầu tư sân Golf ở khu vực đảo Cô Tô vì căn cứ tình hình thực tế về nguồn nước sinh hoạt, xử lý môi trường ở địa phương chưa đủ để đáp ứng việc phát triển loại hình dịch vụ này. Bên cạnh đó, quy hoạch cần bổ sung luận cứ làm rõ cơ sở để điều chỉnh giảm tỷ lệ che phủ rừng từ 55% xuống còn 50%; điều chỉnh, sửa chữa, cập nhập lại một số số liệu liên quan đến thực trạng dân cư, định hướng phát triển dân cư của huyện đảo Cô Tô.
Đại biểu Phạm Thành Trung, Tổ đại biểu TP Uông Bí: Cần phát triển hệ thống đô thị hiện đại, thông minh, bản sắc và bền vững với quy mô lớn để nâng cấp chất lượng sống của người dân.
Phát biểu tại Kỳ họp, đại biểu Phạm Thành Trung cho biết: Đánh giá về tốc độ đô thị hóa của tỉnh thời gian qua sẽ thấy nhiều vấn đề phát sinh, trước hết là còn nhiều khu đô thị, khu dân cư được đầu tư xây dựng hoàn thiện đã lâu nhưng đến nay tỷ lệ lấp đầy còn rất hạn chế; tạo ra tình trạng đầu cơ, sốt đất "ảo" ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường bất động sản. Ngoài ra, việc chuyển đổi mục đích các loại đất để phát triển đô thị, các dự án phát triển nhà ở thiếu kiểm soát dẫn đến lãng phí nguồn lực đầu tư, nguồn lực đất đai. Hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật đô thị đã có bước phát triển nhanh nhưng chưa theo kịp tốc độ phát kinh tế; nhu cầu vốn đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật đô thị lớn, việc xã hội hóa, huy động các nguồn lực trong xã hội vào lĩnh vực này còn hạn chế. Tỷ lệ thu gom, xử lý nước thải chưa được chú trọng tại hầu hết các đô thị, thiếu sự đồng bộ trong xây dựng và khai thác hệ thống hạ tầng kỹ thuật dọc các tuyến đường tại các đô thị... Cùng với đó, việc giải quyết các vấn đề về chỗ ở, hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật cho người lao động tại các đô thị và khu công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức.
Do đó, đại biểu đề nghị bản đồ án Quy hoạch tỉnh lần này cần nghiên cứu, xem xét việc tiếp tục cập nhật, triển khai các nhiệm vụ, giải pháp theo Nghị Quyết 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đặc biệt, cần thát triển hệ thống đô thị hiện đại, thông minh, bản sắc và bền vững với quy mô lớn để nâng cấp chất lượng sống của người dân, thu hẹp nhanh khoảng cách giàu nghèo và chênh lệch vùng miền trong tỉnh, thu hút dân cư từ nơi khác đến. Song song với đó là phát triển kinh tế đô thị hiệu quả, nhất là đô thị du lịch chất lượng cao; thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí dựa trên nền tảng công nghiệp đổi mới sáng tạo và phát huy giá trị văn hóa, con người và thiên nhiên đậm bản sắc Quảng Ninh.
Tỉnh cũng cần quan tâm đưa ra nguyên tắc phát triển, kiểm soát chặt chẽ sự gia tăng dân số đô thị, chỉ tiêu sử dụng đất đô thị, quy trình kiểm soát việc chuyển đổi đất nông nghiệp, đất rừng, lấn biển thành đất đô thị theo quy hoạch và chương trình phát triển đô thị; hạn chế can thiệp, tác động đến diện tích rừng, nhất là rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, bảo vệ hệ sinh thái và môi trường cảnh quan. Đồng thời rà soát thực trạng phát triển, các chỉ tiêu phát triển hệ thống đô thị, các khu dân cư trên địa bàn tỉnh để thấy được những bất cập, hạn chế trong giai đoạn trước; đưa ra giải pháp kiểm soát chặt chẽ các các chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất ở và phương án phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất ở cho từng địa phương; phân bổ hợp lý các chỉ tiêu về hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật, các công trình công ích đô thị, công trình thể thao, cây xanh, công viên; đảm bảo việc xây dựng đồng bộ hệ thống hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật, kết nối mạng lưới hạ tầng chung của địa phương và các vùng phụ cận.
Quy hoạch tỉnh cũng cần quan tâm đưa ra các nguyên tắc, xây dựng danh mục dự án ưu tiên, đặc biệt là các dự án phát triển khu đô thị mới, chỉ cho phép triển khai thực hiện các dự án mới khi đảm bảo khả năng lấp đầy, hiệu quả khai thác sử dụng sau đầu tư để tránh lãnh phí nguồn lực đất đai, đầu tư xã hội; quan tâm ưu tiên giành quỹ đất phát triển các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân. Đồng thời chỉ ra giải pháp đầu tư hạ tầng giao thông kết nối, thúc đẩy phát triển sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội để thu hẹp khoảng phát triển giữa khu vực thành thị với khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với gìn giữ bản tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc với triết lý “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Đại biểu Phạm Thị Hồng Hạnh, Tổ Đại biểu Hạ Long: Xem xét lại việc phát triển mở rộng các Khu công nghiệp, cụm công nghiệp.
Đại biểu thể hiện sự đồng tình, thống nhất cao với các quan điểm, mục tiêu phát triển và các đột phá; các phương án phát triển ngành, lĩnh vực quan trọng và tổ chức các hoạt động kinh tế xã hội trong giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được thể hiện trong quy hoạch tỉnh Quảng Ninh.
Theo đại biểu, báo cáo quy hoạch tỉnh được nghiên cứu công phu, nghiêm túc, bảo đảm tính khoa học và đáp ứng yêu cầu của các quy định hiện hành. Khi được phê duyệt sẽ là một công cụ quan trọng cho các cấp chính quyền sử dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo, thống nhất công tác quản lý nhà nước và hoạch định chính sách, kiến tạo động lực phát triển, bảo đảm sự hợp lý trong phân bổ nguồn lực và sắp xếp không gian cho các hoạt động phát triển kinh tế–xã hội, môi trường, quốc phòng - an ninh trên địa bàn tỉnh.
Để tiếp tục hoàn thiện quy hoạch, đại biểu đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo đơn vị tư vấn cần làm rõ hơn giải pháp, nguồn lực thực hiện quy hoạch, trong đó có giải pháp huy động vốn đầu tư. Báo cáo thuyết minh đưa ra cơ cấu vốn toàn giai đoạn 2021-2030 là 2.844 nghìn tỷ trong đó vốn đầu tư từ ngân sách là 493 nghìn tỷ, tương đương 17% cơ cấu vốn. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 đang thực hiện với tổng nguồn là 92.155 tỷ đồng (thời gian thực hiện quy hoạch trong 10 năm), tức là có 2 kế hoạch đầu tư công trung hạn, tương đương số vốn ngân sách nhà nước có thể đạt được khoảng 185 nghìn tỷ, thấp hơn rất nhiều so với dự kiến nguồn vốn ngân sách nhà nước cần có để thực hiện Quy hoạch. Chính vì vậy, việc huy động nguồn lực ngân sách nhà nước như trên cần rà soát kỹ lưỡng để đảm bảo tính khả thi.
Đại biểu cũng đề nghị nghiên cứu xem xét lại việc phát triển mở rộng các Khu công nghiệp, cụm công nghiệp như trong quy hoạch đang đề xuất là: Quy hoạch mới 8 khu công nghiệp và 29 cụm công nghiệp.
Hiện tại, trên địa bàn tỉnh có 16 KCN đã được TTCP phê duyệt với tổng diện tích 12.899,5ha, tỷ lệ lấp đầy là 43%, thấp hơn mức bình quân chung của cả nước (72%); còn 11 KCN chưa đi vào vận hành, trong đó có nhiều KCN với diện tích lớn như KCN và logistics Vạn Ninh 2000 ha; KCN phụ trợ than Cẩm Phả 400ha, KCN Hải Hà 1: 750, KCN Hải Hà 2: 720ha..... Cơ quan tư vấn chưa đề xuất giải pháp đối với các KCN đã được phê duyệt nhưng chưa đi vào vận hành (đề xuất biện pháp thu hẹp hay thu hồi...), trong khi đó đã đề xuất quy hoạch mới 8 KCN. Tương tự như vậy, hiện toàn tỉnh có 21 CCN (hay 19 CCN, trong QH có 2 số liệu – trang 97-98) với tổng diện tích 1.057,96ha, đã thành lập và mở rộng 8 CCN với diện tích 443,97ha; có 5 CCN đã đầu tư XDHTKT và đi vào hoạt động với diện tích 312,74ha, tỷ lệ lấp đầy bình quân là 65,38%; trong khi tiếp tục đề xuất thêm 8 KCN, 29 CCN. Việc này cần phải xem xét tính toán kỹ lưỡng đảm bảo phát huy được tiềm năng lợi thế của tỉnh, cũng như sự phát triển hài hòa giữa các lĩnh vực kinh tế- xã hội.
Đại biểu Lê Cao Long, Tổ đại biểu TP Cẩm Phả: Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh phải thể hiện được quan điểm đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển, nhất là tư duy phát triển bền vững về bảo tồn và phát huy các giá trị di sản…
Đại biểu cho rằng, quy hoạch tỉnh Quảng Ninh phải thể hiện được quan điểm đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển, nhất là tư duy phát triển bền vững về bảo tồn và phát huy các giá trị di sản; tư duy về phát huy tối đa, hiệu quả các tiềm năng, lợi thế riêng có, khác biệt, từ đó tạo sự thống nhất cao trong nhận thức về hành động của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương, cộng đồng dân cư, doanh nghiệp về mô hình và phương thức phát triển đặc sắc của Quảng Ninh, nhất là quá trình chuyển đổi mô hình từ “nâu” sang “xanh” đang mang lại hiệu quả to lớn, rõ nét.
Góp ý vào nội dung quy hoạch đại biểu đề nghị trong phạm vi quy hoạch, cần làm rõ khái niệm từ bờ ra 6 hải lý, bởi vì theo quy định của Luật Biển 2012 thì chỉ có khái niệm đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải… Về quy hoạch xử lý chất thải rắn cần báo sát vào Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 7/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt điều chỉnh chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050.
Đại biểu đề nghị Sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp các các sở, ngành cập nhật bổ sung lộ trình phát triển đô thị Cẩm Phả đạt loại I; định hướng phát triển đô thị, du lịch và dịch vụ trên địa bàn TP Cẩm Phả vào Quy hoạch tỉnh để có cơ sở phẩn đấu hoàn thành tiêu chí và thuận lợi cho công tác thu hút đầu tư trong giai đoạn tới.
Đối với việc phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp, đại biểu đề nghị quy hoạch cần đánh giá đúng mức hiệu quả của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã làm được, trong đó, làm rõ tỉ lệ lấp đầy được bao nhiêu và việc tăng mới trong quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp có dẫn đến quy hoạch treo, dự án treo hay không...
Đại biểu Nguyễn Thị Tuyết Hạnh, Tổ đại biểu Tiên Yên - Bình Liêu - Ba Chẽ: Các vùng, miền khó khăn sẽ tiếp tục được tỉnh dành sự quan tâm đặc biệt.
Phát biểu tham gia về Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Đại biểu Nguyễn Thị Tuyết Hạnh, tổ đại biểu Tiên Yên - Bình Liêu - Ba Chẽ đồng tình cao với các ý kiến tham gia của các đại biểu về Quy hoạch tỉnh và bày tỏ sự nhất trí về các quan điểm, phát triển của quy hoạch theo 3 vùng. Trong đó, có huyện Bình Liêu được quy hoạch thuộc khu đô thị Móng Cái với hướng đột phá là dựa trên phát triển kinh tế cửa khẩu và du lịch. Đây cũng là một trong những nội dung mà huyện Bình Liêu cũng như các địa phương khác của khu vực miền Đông đã nghiên cứu, triển khai để phát triển KT-XH.
Đại biểu cũng mong muốn, các vùng miền khó khăn sẽ tiếp tục được tỉnh dành sự quan tâm đặc biệt vì khoảng cách phát triển của vùng này với những khu đô thị vẫn còn rất xa. Do đó, đại biểu mong muốn, tới đây hạ tầng giao thông kết nối vùng sẽ được đầu tư đồng bộ. Cụ thể là trong giai đoạn tới sẽ có dự án cải tạo QL 18C trải dài từ Tiên Yên đến Móng Cái với chiều dài 118km để đảm bảo kết nối giữa khu vực kinh tế cửa khẩu Bình Liêu-Hải Hà-Móng Cái và giữ vững quốc phòng an ninh; nâng cấp tuyến đường tỉnh 342 từ xã Vô Ngại (huyện Bình Liêu) qua xã Hà Lâu (huyện Tiên Yên) để nối với tuyến đường 343 mới thành trục đường kinh tế phía Tây Bắc. Đồng thời, tỉnh có thêm các cơ chế chính sách đủ mạnh để thu hút doanh nghiệp. Trong đó, tập trung vào kinh tế biên mậu, kinh tế logistics.
Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh phát biểu kết thúc phiên thảo luận hội trường: Đề nghị đơn vị tư vấn tiếp thu, bổ sung hoàn thiện bản Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Qua phiên thảo luận sáng nay, đã có 10 ý kiến thảo luận, cho ý kiến về Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đa số các đại biểu cũng đã thống nhất thông qua dự thảo Nghị quyết về Quy hoạch và tham góp thêm nhiều ý kiến hết sức tâm huyết, trách nhiệm để bản quy hoạch phát huy giá trị, tạo tiền đề cho tỉnh phát triển bền vững trong tương lai. Đây cũng là sản phẩm đặc biệt, là “tem đảm bảo” thu hút nhà đầu tư. Do vậy, tôi đề nghị đơn vị tư vấn tiếp thu đầy đủ ý kiến của các đại biểu HĐND tỉnh thảo luận tại hội trường, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch; đồng thời, đề nghị các đại biểu HĐND tỉnh cân nhắc, suy ngẫm kỹ bản dự thảo Nghị quyết về quy hoạch để biểu quyết thông qua vào ngày mai, 9/7.
Nhóm PV
Liên kết website
Ý kiến ()