Tất cả chuyên mục

Chiều 19-11, Quốc hội đã thông qua Luật Đặc xá (sửa đổi), Luật Trồng trọt, Luật Chăn nuôi, Luật Cảnh sát biển Việt Nam và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học.
Bổ sung trường hợp không đề nghị đặc xá
Luật Đặc xá (sửa đổi) đã được thông qua với số phiếu tán thành 92,99%.
Luật Đặc xá (sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2019. Luật gồm 6 chương, 39 điều, quy định về nguyên tắc, thời điểm, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm thực hiện đặc xá; điều kiện, quyền và nghĩa vụ của người được đề nghị đặc xá; quyền và nghĩa vụ của người được đặc xá.
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga, trong báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, cho biết, dự thảo Luật đã bổ sung trường hợp không đề nghị đặc xá đối với người bị kết án phạt tù về hai tội: tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 114), tội chống phá cơ sở giam giữ (Điều 119).
Về thời điểm đặc xá (Điều 5), bà Lê Thị Nga cho rằng quy định như dự thảo Luật là kế thừa Luật hiện hành, thể hiện tính nhân đạo trong chính sách pháp luật nước ta. Theo Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội, chưa có nước nào trên thế giới quy định cụ thể trong Luật về tần suất thực hiện đặc xá mà giao cho người đứng đầu Nhà nước quyết định căn cứ vào điều kiện cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn.
Về ý kiến của đại biểu Quốc hội đề nghị giao Chính phủ quy định “tiêu chí xác định sự kiện trọng đại của đất nước”, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, các sự kiện trọng đại của đất nước diễn ra trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, rất đa dạng, do đó, nếu quy định cụ thể tiêu chí xác định sự kiện này trong văn bản quy phạm pháp luật có thể sẽ không bao quát hết. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị cho giữ quy định về thời điểm đặc xá như dự thảo Luật và giao cho Chủ tịch nước căn cứ các quy định của Luật và tình hình của đất nước ở từng thời kỳ để quyết định thời điểm đặc xá phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra
Phân bón phải khảo nghiệm trước khi lưu hành
Luật Trồng trọt được thông qua với số phiếu tán thành 93,81%. Luật gồm 7 chương, 85 điều, quy định về hoạt động trồng trọt; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân hoạt động trồng trọt; quản lý nhà nước về trồng trọt. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2020.
![]() |
Màn hình điện tử thể hiện kết quả biểu quyết Luật Trồng trọt. |
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng trong báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật cho biết, Quốc hội đã đồng ý quy định phân bón phải được khảo nghiệm trước khi được công nhận lưu hành. Một số loại phân bón không phải khảo nghiệm bao gồm: Phân bón hữu cơ sử dụng để bón rễ có thành phần chỉ là chất hữu cơ tự nhiên đáp ứng chỉ tiêu chất lượng theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia; Phân bón vô cơ đơn sử dụng để bón rễ có thành phần chỉ chứa đạm hoặc lân hoặc kali đáp ứng chỉ tiêu chất lượng theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia; Phân bón vô cơ phức hợp sử dụng để bón rễ trong thành phần chỉ chứa các nguyên tố dinh dưỡng đạm, lân, kali được liên kết với nhau bằng các liên kết hóa học đáp ứng chỉ tiêu chất lượng theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia; Phân bón được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền công nhận là tiến bộ kỹ thuật.
Về điều kiện mua bán phân bón, Luật quy định: Tổ chức, cá nhân mua bán phân bón phải có Giấy chứng nhận đủ điều kiện mua bán phân bón. Theo đó, điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện mua bán phân bón là: có địa điểm giao dịch hợp pháp, rõ ràng; có đầy đủ hồ sơ, giấy tờ truy xuất nguồn gốc phân bón theo quy định; người trực tiếp mua bán phân bón phải được tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn về phân bón theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trừ trường hợp đã có trình độ từ trung cấp trở lên thuộc một trong các chuyên ngành về lĩnh vực trồng trọt, bảo vệ thực vật, nông hóa thổ nhưỡng, khoa học đất, nông học, hóa học, sinh học.
Bổ sung chính sách dự trữ quốc gia đối với sản phẩm chăn nuôi
Luật Chăn nuôi được thông qua với 93,61% số phiếu tán thành. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2020. Luật gồm 08 chương, 83 điều quy định về hoạt động chăn nuôi, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong hoạt động chăn nuôi, quản lý nhà nước về chăn nuôi.
![]() |
Màn hình điện tử thể hiện kết quả biểu quyết Luật Chăn nuôi. |
Tại các phiên thảo luận trước đó, một số đại biểu Quốc hội cho rằng các quy định về chính sách của Nhà nước về chăn nuôi còn nặng về định tính nên khó áp dụng trong thực tiễn; đề nghị bổ sung chính sách về dự trữ quốc gia đối với sản phẩm chăn nuôi như thịt lợn, thịt gà một cách linh hoạt nhằm ổn định thị trường sản phẩm chăn nuôi; một số kiến khác cho rằng cần cân nhắc quy định các chính sách hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước phải dựa trên cân đối nguồn lực để có tính khả thi.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng giải thích, quy định về chính sách là quy định có tính nguyên tắc, căn cứ vào yêu cầu và khả năng của ngân sách Nhà nước từng thời kỳ mà Chính phủ và các địa phương ban hành các biện pháp cụ thể để triển khai thực hiện trong thực tế. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu ý kiến về dự trữ sản phẩm chăn nuôi và đã bổ sung vào dự thảo Luật, đồng thời, để chính sách này có hiệu lực, giao Chính phủ căn cứ vào yêu cầu và khả năng thực tế trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, bổ sung vào danh mục hàng dự trữ quốc gia.
Trước ý kiến của một số đại biểu đề nghị bổ sung các quy định về quy hoạch các nhà máy thức ăn chăn nuôi để khắc phục tình trạng phân bố không đồng đều, thiếu tính định hướng, ông Phan Xuân Dũng cho rằng, theo quy định của Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân được tự do sản xuất, kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm trong đó có thức ăn chăn nuôi. Mặt khác, việc đầu tư, xây dựng nhà máy thức ăn chăn nuôi phụ thuộc vào chiến lược phát triển chăn nuôi, thức ăn chăn nuôi của từng địa phương và nhu cầu của thị trường.
Để phát huy vai trò của Nhà nước trong quản lý, định hướng và cung cấp thông tin cho thị trường sản xuất thức ăn chăn nuôi, Dự thảo Luật đã quy định về cơ sở dữ liệu quốc gia về thức ăn chăn nuôi tại Điều 11, chiến lược phát triển chăn nuôi (Điều 5), vì vậy xin không bổ sung quy định về quy hoạch các nhà máy thức ăn chăn nuôi trong Dự thảo Luật.
Cảnh sát biển Việt Nam có nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia
Luật Cảnh sát biển Việt Nam được thông qua với số phiếu tán thành 96,29%. Luật gồm 8 chương, 41 điều, quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; tổ chức và hoạt động của Cảnh sát biển Việt Nam; chế độ, chính sách đối với Cảnh sát biển Việt Nam; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Luật có hiệu lực ngày 1-7-2019.
Tại các phiên thảo luận, một số đại biểu cho rằng quy định cảnh sát biển Việt Nam có nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia là rất rộng, bao trùm lên nhiệm vụ của Hải quân và các lực lượng khác; đề nghị quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của cảnh sát biển Việt Nam trong thu thập thông tin, phân tích đánh giá, dự báo tình hình để đề xuất chủ trương, giải pháp trong việc bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia trên các vùng biển Việt Nam.
![]() |
Đại biểu Quốc hội nhấn nút biểu quyết Luật Cảnh sát biển Việt Nam. |
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Võ Trọng Việt giải thích, cảnh sát biển Việt Nam là cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia và là một trong những lực lượng được giao nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển; có trách nhiệm phối hợp với các lực lượng khác để phát huy sức mạnh tổng hợp trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Do đó, dự thảo Luật quy định Cảnh sát biển Việt Nam có nhiệm vụ thu thập thông tin, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình để đề xuất chủ trương, giải pháp, phương án bảo vệ an ninh quốc gia là phù hợp, không chồng chéo với Hải quân và các lực lượng khác.
Trước những lo ngại về quy định Cảnh sát biển Việt Nam có quyền tuần tra, kiểm tra, kiểm soát là chồng lấn lên chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Kiểm ngư, ông Võ Trọng Việt cho rằng, Cảnh sát biển Việt Nam và Kiểm ngư Việt Nam đều có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, phù hợp với vị trí, vai trò của mình theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Hơn nữa, dự thảo Luật đã quy định về nguyên tắc phối hợp xử lý hành vi vi phạm pháp luật trên biển liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của nhiều lực lượng để xử lý kịp thời, hiệu quả vi phạm pháp luật trên biển, phát huy được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong quản lý, bảo vệ biển, đảo. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho giữ như dự thảo Luật trình Quốc hội.
Mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học được thông qua với tỷ lệ 84,12% phiếu tán thành. Luật đã sửa đổi, bổ sung 37 Điều của Luật Giáo dục đại học. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2019.
Luật quy định, trình độ đào tạo của giáo dục đại học bao gồm trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ. Hình thức đào tạo để cấp văn bằng các trình độ của giáo dục đại học bao gồm: chính quy, vừa làm vừa học, đào tạo từ xa. Việc chuyển đổi giữa các hình thức đào tạo được thực hiện theo nguyên tắc liên thông. Cơ sở giáo dục đại học được tổ chức hoạt động giáo dục thường xuyên, cung cấp dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn cấp chứng chỉ, chứng nhận phù hợp với ngành, lĩnh vực đào tạo của mỗi cơ sở theo quy định của pháp luật để đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người học. Chính phủ quy định trình độ đối với một số ngành đào tạo chuyên sâu đặc thù.
Về quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học, luật quy định: “Quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn bao gồm ban hành, tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn chất lượng, chính sách chất lượng, mở ngành, tuyển sinh, đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác trong và ngoài nước phù hợp với các quy định của pháp luật. Quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện các quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu chuẩn, chế độ của từng vị trí việc làm; tuyển dụng, sử dụng và cho thôi việc đối với giảng viên, viên chức và người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong cơ sở giáo dục đại học phù hợp với quy định của pháp luật. Quyền tự chủ trong tài chính và tài sản bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện các quy định nội bộ về các nguồn thu, quản lý và sử dụng các nguồn tài chính, tài sản; thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển; chính sách học phí, học bổng cho sinh viên và các chính sách khác phù hợp với quy định của pháp luật”.
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội Phan Thanh Bình cho biết, luật đã định rõ nội hàm của các quyền tự chủ về học thuật trong hoạt động chuyên môn, tổ chức - nhân sự và tài chính - tài sản tại các khoản 3, 4, 5 Điều 32 và cụ thể hóa các nội dung này tại các điều, khoản tương ứng trong Luật. Hầu hết các nội dung liên quan đến chuyên môn (như về xác định chỉ tiêu tuyển sinh, nội dung, chương trình đào tạo, tổ chức và quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa học…) đã được giao cho các trường tự chủ quyết định theo quy định của Luật hiện hành, trừ việc mở ngành đào tạo. Dự thảo Luật lần này mở rộng quyền tự chủ, cho phép các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng đủ điều kiện bảo đảm chất lượng và phù hợp nhu cầu thì được tự mở ngành đào tạo ở tất cả các trình độ của giáo dục đại học, chỉ trừ các ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe, đào tạo giáo viên và an ninh, quốc phòng.
Theo LÊ HÀ - Ảnh: DUY LINH / NDĐT
Ý kiến ()