Tất cả chuyên mục

Trong phiên họp HĐND tỉnh lần thứ 9, sáng 5/12, đồng chí Nguyễn Đức Long, Phó Bí thư Tỉnh ủy , Chủ tịch UBND tỉnh thay mặt UBND tỉnh trình bày báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh năm 2018 và các giải pháp thực hiện năm 2019.
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO,
ĐIỀU HÀNH CỦA UBND TỈNH NĂM 2018
I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, CHỈ TIÊU KT-XH CHỦ YẾU:
Thực hiện nhiệm vụ năm 2018 trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều chuyển biến tích cực; kinh tế - xã hội cả nước và của tỉnh tiếp tục duy trì tăng trưởng, công nghiệp khai khoáng trên đà phục hồi, tình hình tiêu thụ có nhiều thuận lợi; nhiều công trình, dự án trọng điểm đã và đang được gấp rút hoàn thành, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; song bên cạnh đó còn nhiều khó khăn, thách thức. Kế thừa những kết quả đạt được và quán triệt, thực hiện Nghị quyết của Chính phủ, Tỉnh ủy, HĐND tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2018; xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành quyết liệt, cùng với sự nỗ lực của các cấp, ngành, nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp; nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2018 đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực, cụ thể:
1. Về phát triển kinh tế
- Kinh tế tiếp tục phát triển, tăng trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) ước đạt 11,1%, vượt 0,9% KH, tăng trưởng cao so với mặt bằng chung của cả nước và cao nhất so với cùng kỳ 6 năm trở lại đây. Quy mô nền kinh tế tăng 12,6%; GRDP bình quân đầu người ước đạt 5.110 USD, tăng 11,2%; năng suất lao động bình quân ước đạt 199,5 triệu đồng, tăng 10,8% so với cùng kỳ.
- Giá trị tăng thêm của 3 khu vực kinh tế: Khu vực I: Nông, lâm, thủy sản tăng 3,5%; khu vực II: Công nghiệp - xây dựng tăng 9,8%; khu vực III: Dịch vụ tăng 14,2%. Thuế sản phẩm tăng 11,8%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đúng hướng, tăng tỷ trọng dịch vụ: Khu vực nông - lâm - thủy sản 5,9%, giảm 0,4%; khu vực công nghiệp - xây dựng 50,3%, giảm 1,0%; khu vực dịch vụ và thuế sản phẩm 43,8%, tăng 1,4% so với cơ cấu kinh tế năm 2017.
- Khu vực công nghiệp tăng khá, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế. Chỉ số phát triển sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tăng 9,1% so với cùng kỳ, trong đó: Ngành khai khoáng tăng 6,7%; ngành chế biến, chế tạo tăng 12,7%; ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt tăng 7,5%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải tăng 9,4%. Động lực chủ yếu đóng góp vào tăng trưởng là ngành khai khoáng, chiếm 19,1% GRDP, ngành công nghiệp chế biến chế tạo, chiếm 10,4% GRDP. Giá trị tăng thêm ngành xây dựng ước tăng 18% cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 6,3% GRDP.
- Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản ổn định. Giá trị tăng thêm ước đạt 5.722 tỷ đồng, tăng 3,5% so với cùng kỳ. Các doanh nghiệp, trang trại chăn nuôi tiếp tục mở rộng sản xuất, phát triển quy mô đàn gia súc, gia cầm; sản lượng thủy sản tăng 6,1% so với cùng kỳ. Công tác phòng chống dịch bệnh được thực hiện thường xuyên. Tỷ lệ che phủ rừng 54,5%, đạt kế hoạch năm. Tỷ lệ số dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh 97,6%, vượt kế hoạch; tỷ lệ dân số đô thị được cung cấp nước sạch trên 94%, đạt kế hoạch đề ra.
- Chương trình mục tiêu, xây dựng nông thôn mới, Đề án 196, Chương trình 135 được cả hệ thống chính trị vào cuộc triển khai tích cực, đồng bộ, với nhiều giải pháp cụ thể, sát với thực tiễn của từng địa phương. Hết năm 2018, có 15 xã đạt chuẩn nông thôn mới, tăng 3 xã so với kế hoạch, nâng tổng số lên 65/111 xã đạt chuẩn; có thêm 5 xã và 40 thôn ra khỏi diện đặc biệt khó khăn, tăng 3 xã, tăng 6 thôn so với kế hoạch, nâng tổng số lên 5/17 xã và 40/54 thôn ra khỏi diện đặc biệt khó khăn, hoàn thành Chương trình 135. Chương trình mỗi xã, phường một sản phẩm (OCOP) tiếp tục được nhân rộng, đến nay đã có 130 đơn vị tham gia, với 322 sản phẩm.
- Khu vực dịch vụ sôi động, đạt mức tăng trưởng cao so cùng kỳ. Giá trị tăng thêm ước đạt 36.835 tỷ đồng, tăng 14,2% so với cùng kỳ. Thuế sản phẩm ước đạt 11.095 tỷ đồng, tăng 11,8%. Thu ngân sách từ dịch vụ ước đạt 5.758 tỷ đồng, chiếm 18,9% tổng thu ngân sách nội địa, tăng 16% cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 87.498 tỷ đồng, tăng 19,7% cùng kỳ. Tổng số khách du lịch ước đạt 12,2 triệu lượt, tăng 24% cùng kỳ, trong đó khách quốc tế ước đạt 5,2 triệu lượt, tăng 22,1%; doanh thu du lịch đạt 23,6 nghìn tỷ đồng, tăng 28% cùng kỳ; thu ngân sách từ du lịch ước đạt 2.750 tỷ đồng, chiếm 9,0% tổng thu ngân sách nội địa, tăng 31% cùng kỳ. Hoạt động vận tải tăng khá; dịch vụ bưu chính, viễn thông tiếp tục phát triển. Thị trường tiền tệ ổn định, vốn tín dụng huy động tại địa phương tăng 14,7%, dư nợ tín dụng tăng 10,2%. Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 1.962 triệu USD, tăng 11% cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 1.793 triệu USD, tăng 4,2% cùng kỳ. Tuy nhiên, hoạt động tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu giảm sút; thu phí sử dụng kết cấu hạ tầng cửa khẩu ước giảm 12% so với dự toán HĐND tỉnh giao.
- Môi trường đầu tư kinh doanh, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), cấp sở, ngành, địa phương (DDCI) tiếp tục được cải thiện; công tác hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp được quan tâm với nhiều giải pháp, sáng kiến, sử dụng mạng xã hội tương tác với người dân và doanh nghiệp, với mục tiêu tiếp tục giữ vững vị trí dẫn đầu Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 67,6 nghìn tỷ đồng, tăng 11,6% so với cùng kỳ. Cấp mới, điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 50 dự án, với tổng mức đăng ký đầu tư 23,6 nghìn tỷ đồng, tăng 71% cùng kỳ. Năm 2018, có 2.450 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, bằng 85% kế hoạch, tăng 5,4% cùng kỳ, vốn đăng ký 24 nghìn tỷ đồng, tăng 80% cùng kỳ; số doanh nghiệp thành lập mới không đạt kế hoạch, nguyên nhân do chính sách hỗ trợ chưa mạnh, chưa hiệu quả, việc phát triển khởi nghiệp, chuyển hộ sản xuất, kinh doanh lên doanh nghiệp còn ít. Hết năm 2018 trên địa bàn tỉnh có 17.560 doanh nghiệp, vốn đăng ký 169.144 tỷ đồng.
- Điều hành thu, chi ngân sách chủ động, linh hoạt; thu ngân sách nhà nước có nhiều cố gắng trong điều kiện còn nhiều khó khăn, thách thức. Tổng thu ngân sách nhà nước ước đạt 40.500 tỷ đồng, tăng 11% dự toán, tăng 5% so với cùng kỳ, trong đó: Thu nội địa ước đạt 30.500 tỷ đồng, tăng 10,3% so với thực hiện 2017, chiếm 75,3% tổng thu ngân sách nhà nước; Thu xuất, nhập khẩu ước đạt 10.000 tỷ đồng, tăng 67% dự toán năm. Công tác quản lý chi ngân sách được kiểm soát chặt chẽ, chi thường xuyên bảo đảm tiết kiệm, đúng chính sách, chế độ quy định, ước đạt 11.833 tỷ đồng, đạt 101% dự toán, tăng 25% cùng kỳ. Tổng vốn ngân sách chi đầu tư phát triển là 15.245 tỷ đồng, tăng 2.254 tỷ so kế hoạch giao đầu năm, chiếm 65,2% tổng dự toán chi ngân sách giao đầu năm. Nợ đọng XDCB còn lại là 416 tỷ đồng, giảm 727 tỷ đồng so với thời điểm cuối năm 2017 là 1.143 tỷ đồng.
2. Ba đột phá chiến lược tiếp tục được tập trung chỉ đạo quyết liệt và chuyển biến rõ nét
- Tập trung đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ. Nhiều dự án, công trình đầu tư kết cấu hạ tầng quan trọng, động lực, nhất là các công trình, dự án hạ tầng giao thông, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng khu kinh tế Vân Đồn, khu công nghiệp Hải Hà, Đầm Nhà Mạc, Việt Hưng, Cảng Nam Tiền Phong,..; các dự án vốn đầu tư công: Cung văn hóa thanh thiếu nhi, Trường đào tạo cán bộ Nguyễn Văn Cừ, Trụ sở Liên cơ quan số 3, Trạm kiểm soát liên ngành cầu Bắc Luân II... đã và đang được tỉnh tập trung chỉ đạo, đẩy nhanh công tác GPMB và tiến độ thi công để sớm hoàn thành đưa vào sử dụng. Hoàn thành tuyến cao tốc Hạ Long - Hải Phòng và Cầu Bạch Đằng; cuối tháng 12/2018, tổ chức khánh thành, thông xe cao tốc Hạ Long - Vân Đồn và đưa Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn, Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long vào sử dụng, khai thác góp phần tạo động lực chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, liên vùng và kết nối với quốc tế. Đồng thời tích cực hoàn thành công tác chuẩn bị đầu tư để sớm khởi công các dự án: Đường cao tốc Vân Đồn - Móng Cái, Hầm đường bộ qua Vịnh Cửa Lục, đường bao biển Hạ Long - Cẩm Phả.
- Chú trọng xây dựng thể chế, cải cách hành chính. Hoàn thiện Đề án thành lập Khu kinh tế ven biển Quảng Yên trình Thủ tướng Chính phủ; đồng thời báo cáo, đề xuất Chính phủ về một số cơ chế, chính sách, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Công tác cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính được triển khai quyết liệt, theo hướng giảm thủ tục, giảm thời gian giải quyết; tổng số TTHC cấp tỉnh 1.450, cấp huyện 302, cấp xã 98; tăng số thủ tục hành chính thực hiện đủ 4 bước “Tiếp nhận, thẩm định, phê duyệt và trả kết quả” tại chỗ, tăng dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3, cấp độ 4; hoàn thành đầu tư 183/186 bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hiện đại cấp xã; đưa 239 điểm cầu trực tuyến đến cấp xã vào sử dụng. Triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chất lượng cải cách hành chính, chất lượng các chỉ số Papi, Sipas. Tỉnh đạt giải thưởng ASOCIO 2018 dành cho chính quyền số xuất sắc của 24 nền kinh tế thành viên do Tổ chức công nghiệp Điện toán Châu Á - Châu Đại Dương trao tặng.
- Quan tâm phát triển toàn diện nguồn nhân lực và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; triển khai kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với 154 lớp, 10.220 học viên, tổng kinh phí 55,9 tỷ đồng; hoàn thiện Đề án thu hút lao động và phát triển nguồn nhân lực phục vụ các KCN, KKT. Xây dựng cơ chế, chính sách thu hút lao động vào KCN cảng biển Hải Hà.
3. Về lĩnh vực văn hóa - xã hội
- Đảm bảo an sinh, phúc lợi xã hội, chi an sinh xã hội 1.840 tỷ đồng, tăng 13,1% cùng kỳ. Hoàn thành hỗ trợ nhà ở cho 3.766 hộ người có công với kinh phí hỗ trợ 171,7 tỷ đồng; Đề án hỗ trợ nhà ở cho 1.198 hộ nghèo giai đoạn 2 đạt 90% kế hoạch, kính phí hỗ trợ trên 53 tỷ đồng. Di dời 540/558 hộ dân (đạt 98%) Đề án di dân ra khỏi khu vực có nguy cơ sạt lở, ngập lụt, nguy hiểm. Nhận thức của người dân từng bước đã thay đổi và đề nghị được thoát nghèo; tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm 0,97%, tăng 0,27% so kế hoạch, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 2,25% xuống còn 1,28%; ước tạo việc làm mới cho 19,3 nghìn lao động; tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 75,2%, đạt vượt 0,2% kế hoạch.
- Chất lượng giáo dục tiếp tục chuyển biến tích cực; giáo dục đại trà được duy trì, giữ vững; giáo dục mũi nhọn tiếp tục đạt kết quả cao; số học sinh hoàn thành chương trình ở các bậc học đạt tỷ lệ cao, trong đó tỷ lệ đỗ tốt nghiệp THPT đạt 98%, tăng 1,14% so với năm 2017; tỉnh có nhiều học sinh đạt huy chương cấp quốc gia, quốc tế như: Huy Chương đồng Olympic Vật lý châu Á - Thái Bình Dương; giải nhất Đường lên đỉnh Olympia. Cơ sở vật chất cho giáo dục, đào tạo tiếp tục được quan tâm, tỷ lệ trường chuẩn quốc gia ở các cấp học đạt 81,7%, tăng 21 trường so năm 2017; tỷ lệ phòng học kiên cố đạt trên 90%; chấn chỉnh hoạt động dạy thêm, học thêm và thu, chi trong các cơ sở giáo dục. Trường Đại học Hạ Long tuyển sinh năm 2018 đạt 1.522 sinh viên, tăng 12% số sinh viên so với năm 2017.
- Hoạt động khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc trẻ em đạt nhiều kết quả quan trọng. Hạ tầng y tế tiếp tục được quan tâm đầu tư như: Bệnh viện Đa khoa Cẩm Phả, Trung tâm y tế (Hải Hà, Móng Cái, Cô Tô, Hoành Bồ), Trung tâm Ung bướu Bệnh viện Bãi Cháy; đưa vào vận hành, sử dụng các trang thiết bị dự án xây dựng 3 bệnh viện thông minh. Tổ chức sắp xếp lại hệ thống các trung tâm y tế tuyến tỉnh, tuyến huyện. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 94,3%, tăng 1,14% so kế hoạch; đưa Quảng Ninh ra khỏi nhóm top đầu địa phương có mức sử dụng vượt trần quỹ khám, chữa bệnh BHYT; số bác sĩ đạt 14,7 bác sĩ và 56,42 giường bệnh trên 1 vạn dân; thiết lập hồ sơ quản lý sức khỏe toàn dân đạt 96% dân số. Công tác phòng, chống dịch bệnh, an toàn thực phẩm được triển khai tích cực, không để xảy dịch bệnh lớn trên địa bàn.
- Các hoạt động văn hóa, thông tin, báo chí, phát thanh truyền hình không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động. Công tác quản lý và tổ chức lễ hội có nhiều tiến bộ, bảo tồn phát huy được giá trị di sản văn hóa; công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo được tăng cường. Thiết chế văn hóa, thể thao được quan tâm: Đầu tư xây dựng Cung văn hóa thanh thiếu nhi, Trung tâm huấn luyện thể thao tỉnh, cải tạo, nâng cấp sân Vận động Cẩm Phả, khánh thành và xây dựng phương án sử dụng Nhà thi đấu đa năng 5.000 chỗ ngồi, Nhà điều dưỡng cán bộ tỉnh; tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao tỉnh lần thứ VIII; thể thao thành tích cao đạt 228 huy chương.
4. Công tác quy hoạch, GPMB, quản lý đất đai, đô thị, tài nguyên, môi trường và khoa học công nghệ được tăng cường
- Triển khai lập 14 đồ án quy hoạch phân khu chức năng; hủy bỏ 11 quy hoạch không còn phù hợp; lập Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội và Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Vân Đồn; lập dự án điều chỉnh quy hoạch ba loại rừng; điều chỉnh Quy hoạch thăm dò khai thác khoáng sản làm vật liệu thông thường; điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2016-2020 và kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối của tỉnh và các địa phương; TP Móng Cái được Thủ tướng Chính phủ công nhận là đô thị loại II; đến nay tỷ lệ phủ kín quy hoạch chung đô thị là 100%, quy hoạch phân khu đạt 48,1%, quy hoạch chi tiết 51,9%; tỷ lệ đô thị hóa đạt 64%. Công tác giải phóng mặt bằng các dự án, công trình được các sở, ngành, địa phương tập trung chỉ đạo, nhất là đối với các dự án trọng điểm, như: Dự án cao tốc Vân Đồn - Móng Cái, các dự án hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế...
- Công tác quản lý nhà nước về đất đai, đô thị, tài nguyên, môi trường được tăng cường, ngăn chặn kịp thời việc giao đất, mua bán, chuyển nhượng và sử dụng đất đai trái pháp luật; xây dựng và cập nhật dự án trên phần mềm "Quản lý các dự án đầu tư có sử dụng đất, mặt nước trên địa bàn tỉnh"; rà soát về trình tự, thủ tục, hồ sơ pháp lý đối với các dự án lớn sử dụng vốn ngoài ngân sách và đầu tư theo hình thức PPP; quyết định thu hồi đất 46 đơn vị, với 2.907ha; cập nhật thống kê, theo dõi 3.955 hợp đồng thuê đất trên phần mềm quản lý; kiểm tra xử lý 209 vụ, 223 đối tượng khai thác, vận chuyển, kinh doanh than, cát, đá, sỏi trái phép.
- Các nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ đảm bảo tiến độ; đánh giá sơ kết 1 năm thực hiện Nghị quyết số 07 ngày 13/3/2017 của Tỉnh ủy về phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020; hướng dẫn các địa phương, doanh nghiệp sử dụng địa danh, đăng ký nhãn hiệu cho các sản phẩm. Tỷ lệ chi sự nghiệp KH&CN chiếm 5,06% tổng chi thường xuyên ngân sách tỉnh.
5. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp không ngừng tăng cường
- Tích cực rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy theo Nghị quyết số 18, Nghị quyết số 19 của Hội nghị Trung ương 6, khóa XII; hợp nhất Ban Tổ chức với Phòng Nội vụ tại 13/14 địa phương, Cơ quan UBKT với Thanh tra cấp huyện tại 14/14 địa phương; sắp xếp lại 2 Ban quản lý dự án cấp tỉnh, 14 Ban quản lý dự án cấp huyện; giảm 27 phòng chuyên môn cấp huyện, 14 phòng chuyên môn tại 9 Chi cục thuộc 4 Sở và 36 đơn vị sự nghiệp công lập thuộc sở, ngành, địa phương; giao số biên chế công chức, số lượng người làm việc không vượt chỉ tiêu Trung ương giao; công tác quản lý, tuyển dụng, sử dụng công chức, viên chức, hợp đồng lao động được quản lý chặt chẽ.
- Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải quyết kiến nghị của cử tri được các cấp, ngành tập trung giải quyết, có nhiều đổi mới và và dứt điểm từng vụ việc; các cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong tỉnh đã tiếp 6.985 lượt công dân, với 5.482 vụ việc; tiếp nhận, xử lý 10.848 đơn, qua phân loại, xử lý giải quyết 545/698 vụ việc khiếu nại, 29/37 vụ việc tố cáo.
- Công tác thanh tra, kiểm tra đảm bảo đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, tránh chồng chéo. Triển khai 124 cuộc thanh tra kinh tế - xã hội, 18 cuộc thanh tra trách nhiệm và 32 cuộc thanh tra đột xuất; đã ban hành kết luận thanh tra 80 cuộc. Qua công tác thanh tra đã kiến nghị thu hồi về ngân sách nhà nước 26,9 tỷ đồng, kiến nghị khác 19,8 tỷ đồng, kiến nghị kiểm điểm trách nhiệm 120 tập thể, 95 cá nhân; thực hiện kiểm toán ngân sách, kiểm toán các dự án giao đất có thu tiền sử dụng đất khu đô thị và triển khai thực hiện nghiêm các kết luận, kiến nghị sau kiểm toán. Chủ động phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chuyển đổi vị trí công tác đối với 511 trường hợp, điều tra 8 vụ, 17 bị can về tội tham nhũng. Công tác tư pháp, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, bổ trợ tư pháp đạt nhiều kết quả.
- Thực hiện chủ đề năm “Dân vận chính quyền”, các cấp chính quyền từ tỉnh đến cơ sở không ngừng cải cách hành chính, phương thức, lề lối làm việc, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các cấp, hiệu quả công việc đã chuyển biến rõ nét, nâng cao niềm tin của người dân với chính quyền các cấp.
6. Chủ đề công tác năm 2018 về: "Bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường tự nhiên" được các cấp, ngành tập trung triển khai; xây dựng Chương trình hành động triển khai Nghị quyết số 12 ngày 12/3/2018 của Tỉnh ủy về bảo vệ môi trường. Tập trung tuyên truyền nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường đến người dân và doanh nghiệp; kiểm soát chặt chẽ nguồn thải gây ô nhiễm môi trường. Thực hiện Đề án đảm bảo môi trường cấp bách ngành Than; cải tạo môi trường các bãi thải mỏ, xây dựng tuyến băng tải than, giảm bụi, tiếng ồn. Kiểm soát chặt chẽ nguồn xả thải từ hoạt động của các cơ sở sản xuất, nhà máy, xí nghiệp; giám sát, vận hành thường xuyên các trạm quan trắc môi trường; rà soát, di rời cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp gây ô nhiễm môi trường ra khỏi khu dân cư. Chấm dứt hoạt động của các cơ sở sản xuất gạch bằng công nghệ lạc hậu; cơ sở sản xuất vôi thủ công và đã thống nhất với Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam chấm dứt hoạt động của Nhà máy Tuyển than Nam Cầu Trắng từ ngày 1 tháng 1 năm 2019.
7. Quốc phòng, an ninh được củng cố, ổn định, chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững; tình hình trật tự, an ninh trên tuyến biên giới, biển đảo, an ninh chính trị, kinh tế, thông tin, tôn giáo, dân tộc cơ bản ổn định. Thực hiện hiệu quả các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm; tội phạm hình sự xảy ra 630 vụ, tăng 18% so cùng kỳ; tỷ lệ kết quả điều tra, khám phá vụ phạm pháp hình sự đạt cao, trên 82,2%; tội phạm về ma túy vẫn diễn biến phức tạp, tăng 11,7% về số vụ, tăng 6,8% về số đối tượng so với cùng kỳ; xử lý 1.454 vụ buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, trị giá hàng hóa 44,6 tỷ đồng. Toàn tỉnh xảy ra 98 vụ tai nạn giao thông, làm chết 60 người, bị thương 68 người; giảm 4 vụ, giảm 1 người chết, giảm 10 người bị thương so với cùng kỳ; tai nạn lao động xảy ra 26 vụ, làm chết 27 người, giảm 5 vụ, giảm 7 người chết so với cùng kỳ; xảy ra 33 vụ cháy, giảm 11 vụ so cùng kỳ.
Hoạt động đối ngoại được tăng cường, triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả. Quản lý biên giới trên bộ, trên biển ổn định và giữ vững chủ quyền, triển khai theo đúng tinh thần các văn kiện pháp lý đã ký kết. Đối ngoại nhân dân được mở rộng và nâng cao chất lượng; tăng cường mối quan hệ gắn bó của nhân dân và lực lượng chức năng hai bên biên giới Việt - Trung, góp phần xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị cùng phát triển.
II. CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA UBND TỈNH
Công tác chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh chủ động, linh hoạt, đổi mới trong điều hành, có trọng tâm, trọng điểm và dứt điểm, lấy hiệu quả công việc để xác định mục tiêu điều hành và hành động theo chỉ đạo của Chính phủ là: “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả”. Hoạt động của UBND tỉnh đã bám sát sự lãnh đạo của Đảng, tranh thủ sự quan tâm, ủng hộ của Trung ương; tuân thủ các quy định của pháp luật, quy chế làm việc của Tỉnh ủy, sự giám sát của HĐND tỉnh; tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy vai trò tập thể gắn với đề cao trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, tạo sự thống nhất, sức lan tỏa trong nhận thức, quyết tâm thực hiện; dành nhiều thời gian làm việc trực tiếp với cơ sở, kịp thời chỉ đạo giải quyết dứt điểm nhiều vấn đề phức tạp, nhạy cảm mà dư luận xã hội và nhân dân quan tâm. Phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, Cơ quan khối nội chính, tư pháp, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị thông qua Chương trình phối hợp.
Tổng thể cả năm 2018, UBND tỉnh đã triển khai đồng bộ quyết liệt, toàn diện các nhiệm vụ để phát triển kinh tế - xã hội; qua công tác chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền thì lòng tin của nhân dân được nâng lên rõ nét, đây là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy, nâng cao trách nhiệm của các cấp chính quyền trong trong tình hình mới. Tuy nhiên, trong điều hành phát triển kinh tế - xã hội, hiệu quả công tác trên một số lĩnh vực còn có nhiệm vụ chưa đạt yêu cầu đặt ra; việc triển khai một số chỉ đạo, cơ chế chính sách của tỉnh ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn chậm, hiệu quả chưa cao, nhất là những việc mới, việc khó khi phát sinh; trình tự, thủ tục hành chính vẫn còn bất cập; chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đồng đều, có lúc, có nơi chưa chủ động, làm hết trách nhiệm được phân công.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Những kết quả đạt được
Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, song kế thừa kết quả đạt được của những năm qua, với sự nỗ lực, phấn đấu của các cấp, ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh ta có nhiều chuyển biến tích cực, đạt kết quả toàn diện trên các lĩnh vực. Hoàn thành và vượt 11/11 chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu năm 2018. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt 11,1%, cao nhất so với cùng kỳ 6 năm gần đây. Công tác điều hành thu, chi ngân sách có nhiều cố gắng, tăng 11,3% so dự toán (thu nội địa tăng 10,3%) gắn với triển khai Kế hoạch đầu tư công trung hạn. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; đẩy nhanh tiến độ các dự án lớn có tính chất động lực, góp phần tạo động lực chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và cả vùng. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực được tăng cường. Triển khai một số nhiệm vụ, mô hình mới như xây dựng thành phố thông minh, chính quyền điện tử đạt kết quả bước đầu, tỉnh được nhận giải thưởng ASOCIO, một số cá nhân và tập thể nhận được các giải thưởng quốc gia, quốc tế. Ưu tiên phát triển mạnh các ngành dịch vụ gắn với Năm du lịch quốc gia 2018. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, chủ quyền biên giới, biển đảo được giữ vững, không để xảy ra đột xuất, bất ngờ; chủ động trong mọi tình huống, giữ vững và bảo đảm an ninh trật tự. Hoạt động đối ngoại tiếp tục được củng cố và mở rộng. Những kết quả trên khẳng định rõ hơn vai trò, vị thế mới về một Quảng Ninh đổi mới, năng động, sáng tạo; tạo thế và lực mới cho sự phát triển của tỉnh Quảng Ninh nói riêng, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và của cả nước nói chung trong những năm tiếp theo.
2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh, nhất là lĩnh vực dịch vụ, kinh tế biển, dịch vụ cảng biển. Tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp nhiều khó khăn; số doanh nghiệp thành lập mới không đạt kế hoạch năm 2018 đề ra. Một số khoản thu ngân sách dự báo khó đạt dự toán năm; tiến độ giải ngân vốn đầu tư phát triển, vốn chương trình mục tiêu quốc gia, vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư còn chậm. Tiến độ triển khai một số dự án, công trình, nhiệm vụ trọng tâm, việc nghiên cứu, lập quy hoạch một số dự án còn chậm so với yêu cầu. Công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực như đất đai, đô thị, tài nguyên, môi trường còn có mặt hạn chế; một số địa phương, đơn vị chưa quyết liệt xử lý nghiêm các sai phạm, nhất là về đất đai, môi trường, xây dựng; vẫn còn biểu hiện lợi dụng các dự án để khai thác trái phép tài nguyên, khoáng sản; công tác quản lý các cảng, bến, phương tiện vận chuyển còn bất cập. Một số nội dung triển khai Chương trình hành động số 21-CTr/TU của Tỉnh ủy về sắp xếp tổ chức bộ máy, biên chế triển khai còn chậm, nhất là trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Số lượng, chất lượng nguồn nhân lực còn thiếu hụt, chưa đáp ứng được nhu cầu; chưa có nhiều giải pháp khắc phục. Tình hình an ninh trật tự, tội phạm, tai nạn giao thông, tai nạn lao động, phòng chống cháy nổ, tệ nạn xã hội, khiếu kiện trên địa bàn còn tiềm ẩn phức tạp.
Những hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu như: Một số nhiệm vụ, giải pháp sau khi có chủ trương, chỉ đạo thống nhất, song tổ chức thực hiện vẫn có việc còn lúng túng, chưa đôn đốc, bám sát; tính chủ động, năng lực quản lý, điều hành ở một số cấp chính quyền, ngành có mặt hạn chế. Công tác nắm tình hình, dự báo, trình độ tham mưu, thực thi nhiệm vụ của một số cán bộ sở, ngành, địa phương còn chưa đáp ứng được yêu cầu; đội ngũ cán bộ cơ sở chưa theo kịp chỉ đạo chung của toàn tỉnh. Công tác tuyên truyền chủ trương, định hướng; tổ chức thực thi pháp luật, cụ thể hóa các cơ chế, chính sách có mặt còn hạn chế.
Phần thứ hai
NHIỆM VỤ VÀ CÁC GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2019
Năm 2019, là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để hoàn thành Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Với đà tăng trưởng cao của cả nước, cùng với những chuyển biến mạnh mẽ của tỉnh trong những năm gần đây; đặc biệt, nhiều dự án, công trình động lực có tính kết nối, lan toả, khi hoàn thành, đi vào hoạt động sẽ mang lại nhiều cơ hội cho tỉnh trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức lớn; cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực đòi hỏi nguồn lực lớn; việc thực hiện các cam kết quốc tế đã ký kết, những căng thẳng thương mại quốc tế gần đây là những thời cơ cho tỉnh nhưng cũng đặt ra không ít thách thức khi quy mô, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tỉnh còn yếu, nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu, vẫn là những thách thức lớn với tỉnh. Đây là áp lực lớn mà các cấp, ngành, doanh nghiệp cần vượt qua để phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng, hiệu quả.
I. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU
1. Mục tiêu tổng quát: Giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục phát triển kinh tế bền vững, chuyển dịch rõ nét cơ cấu kinh tế theo hướng tăng cao tỷ trọng, nâng cao chất lượng dịch vụ, phục vụ nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược; đầu tư đồng bộ hạ tầng Khu kinh tế Vân Đồn; thu hút, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; phát huy đổi mới, sáng tạo và triển khai mô hình thành phố thông minh. Tăng cường công tác bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Tiếp tục tinh giản bộ máy, biên chế; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị liêm chính, hành động và phục vụ; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.
2. Các chỉ tiêu chủ yếu (11 chỉ tiêu): Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) trên 11,6%. Tổng thu ngân sách nhà nước 41.500 tỷ đồng, trong đó: Thu ngân sách nội địa 33.500 tỷ đồng; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 8.000 tỷ đồng. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tăng 10%. Tổng nguồn vốn đầu tư xã hội tăng 10%. Tỷ lệ hộ nghèo giảm 0,4%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 80%. Tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 94,8%. Số bác sĩ/vạn dân đạt 14,7 bác sĩ. Tỷ lệ che phủ rừng đạt trên 54,5%. Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh 98%; tỷ lệ dân số đô thị được cung cấp nước sạch trên 96%. Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom trên 94,5%.
II. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Tạo chuyển biến rõ nét trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Thực hiện hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Đảng; các chỉ đạo của Chính phủ, kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh tại Thông báo số 371/TB-VPCP ngày 24/9/2018. Phát triển mạnh lĩnh vực dịch vụ gắn với thực hiện chủ đề công tác năm 2019 về "Nâng cao chất lượng và hiệu quả dịch vụ". Tập trung triển khai Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 05/02/2015 của Tỉnh ủy và các chỉ đạo của tỉnh về phát triển dịch vụ; Nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế dịch vụ cảng biển nhằm khai thác lợi thế của tỉnh, gắn với thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Hội nghị TW8 (khóa XII) về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Thu hút các nhà đầu tư chiến lược đầu tư phát triển sản phẩm du lịch chất lượng cao. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về dịch vụ, du lịch. Phát triển các loại hình dịch vụ thương mại, trung tâm mua sắm. Thúc đẩy, phát triển hoạt động xuất, nhập khẩu theo hướng chính ngạch. Chủ động chuẩn bị các điều kiện để tham gia, triển khai Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mà Việt Nam là thành viên. Tạo điều kiện để các nhà đầu tư triển khai các dự án tại các khu kinh tế, khu công nghiệp, nhất là tại KKT Vân Đồn, các KCN Sông Khoai, Đầm Nhà Mạc, Hải Hà, Nam Tiền Phong và Việt Hưng... Cơ cấu lại ngành Nông nhiệp theo hướng gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển mạnh nông nghiệp công nghệ cao, chế biến nông, lâm, thủy sản, liên kết chuỗi giá trị. Nâng cao chất lượng Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với Đề án 196; phấn đấu có thêm ít nhất 13 xã và 3 đơn vị cấp huyện (Uông Bí, Cẩm Phả, Móng Cái) đạt chuẩn nông thôn mới. Phát triển các sản phẩm OCOP gắn với du lịch, dịch vụ.
2. Đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược. Sử dụng hiệu quả nguồn lực ngân sách, huy động nguồn lực xã hội để tiếp tục đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhất là hình thức PPP cho các dự án hạ tầng giao thông, dịch vụ, du lịch, cửa khẩu, y tế, giáo dục... Khai thác, phát huy hiệu quả các dự án trọng điểm đã hoàn thành như sân bay, đường cao tốc, cảng, bến du thuyền, hạ tầng cửa khẩu... tạo kết nối giao thông, kết nối kinh tế trong nước, khu vực và quốc tế. Triển khai đầu tư tuyến đường cao tốc Vân Đồn - Móng Cái, tuyến đường bao biển Hạ Long - Cẩm Phả, Hầm đường bộ qua vịnh Cửa Lục... Thu hút mạnh mọi nguồn lực để đầu tư kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại khu kinh tế Vân Đồn. Tăng cường cải cách hành chính, trọng tâm thủ tục hành chính, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục; rút ngắn thời gian thẩm định, cấp phép; tăng số TTHC thực hiện đủ 4 bước “Tiếp nhận, thẩm định, phê duyệt và trả kết quả” và cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4. Thực hiện có hiệu quả các giải pháp cải thiện, nâng cao chất lượng các chỉ số: Par index, PAPI, ICT, SIPAS. Triển khai hiệu quả Đề án xây dựng chính quyền điện tử giai đoạn 2 (2017-2020) gắn với Đề án xây dựng thành phố thông minh. Tập trung phát triển nguồn nhân lực; đổi mới, nâng cao hiệu quả đào tạo nghề, phù hợp với những định hướng của tỉnh, đáp ứng nhu cầu sử dụng và thực tiễn của xã hội; đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; triển khai chính sách thu hút lao động vào các KKT, KCN, nhất là khu công nghiệp cảng biển Hải Hà.
3. Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; khuyến khích và tạo điều kiện thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển; hỗ trợ doanh nghiệp. Thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, giải quyết kịp thời các thủ tục hành chính về quy hoạch, đất đai, xây dựng, môi trường, đầu tư, giải phóng mặt bằng, dự án của các nhà đầu tư chiến lược, các dự án tại KCN, KKT; phấn đấu vị trí top dẫn đầu về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI); đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh cấp sở, ngành, địa phương (DDCI). Thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo; kịp thời tháo gỡ khó khăn, đồng hành cùng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, doanh nghiệp ngành Than. Thu hút có chọn lọc các dự án đầu tư, ưu tiên sử dụng công nghệ cao, thân thiện môi trường. Thúc đẩy mạnh mẽ đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp, nhất là khu vực tư nhân trên cơ sở từ các hộ sản xuất, kinh doanh cá thể. Thực hiện lộ trình thoái 100% vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật.
4. Chủ động, linh hoạt trong quản lý, điều hành thu, chi ngân sách; Chấn chỉnh, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong chấp hành pháp luật về ngân sách nhà nước ở tất cả các cấp, ngành theo Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 08/11/2018 của Thủ tướng Chính phủ. Bảo đảm cơ cấu thu bền vững, chủ động rà soát dư địa để tăng tỷ lệ thu từ thuế, phí; các khoản thu dịch vụ ngoài quốc doanh, hộ kinh doanh cá thể, các nguồn thu từ đất, tài nguyên, khoáng sản; xem xét điều chỉnh cơ chế quản lý, điều hành nguồn vượt thu phù hợp với thực tiễn từng địa phương; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, mở rộng áp dụng dịch vụ hóa đơn điện tử, thanh toán điện tử. Rà soát cơ cấu, nhu cầu chi thực tế bảo đảm nguồn lực cho an sinh xã hội, triệt để tiết kiệm chi thường xuyên để bổ sung nguồn lực cho chi đầu tư phát triển, hạn chế điều hòa nguồn vốn. Điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn đáp ứng yêu cầu mới từ thực tiễn, ưu tiên các công trình quan trọng, cấp thiết, tránh đầu tư dàn trải. Rà soát, khắc phục các thủ tục gây chậm trễ trong giải ngân các nguồn vốn đầu tư. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát đảm bảo chất lượng công trình, nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý, khai thác các dự án sau đầu tư.
5. Chú trọng phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội; thực hiện hiệu quả các chính sách đảm bảo an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững. Quyết liệt triển khai có hiệu quả Chương trình mục tiêu giảm nghèo bền vững, Đề án 196; năm 2019 có thêm 12 xã và 8 thôn ra khỏi diện đặc biệt khó khăn, hoàn thành Chương trình 135. Tăng cường quản lý nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động, việc chấp hành chế độ, chính sách đối với người lao động; nâng cao chất lượng và tỷ lệ lao động qua đào tạo; bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, giáo dục mũi nhọn, chú trọng địa bàn miền núi, vùng khó khăn, biên giới, biển đảo. Rà soát sắp xếp lại trường, lớp, quy mô các cơ sở giáo dục, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên phù hợp với điều kiện thực tiễn và theo hướng nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo. Quan tâm công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác dân số trong tình hình mới. Tiếp tục rà soát việc sắp xếp các cơ sở y tế; sớm triển khai đầu tư xây dựng Bệnh viện Lão khoa, thu hút đầu tư Trung tâm dưỡng lão; thực hiện tốt thông tuyến và ứng dụng công nghệ thông tin, kết nối liên thông kết quả giữa các cơ sở khám, chữa bệnh; sớm hoàn thành việc lập hồ sơ quản lý sức khỏe toàn dân. Tích cực triển khai Nghị quyết số 11-NQ/TU về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững”. Tăng cường quản lý nhà nước về di tích, lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo, các hoạt động văn hóa; quản lý, khai thác có hiệu quả thiết chế văn hóa, thể thao. Nhân rộng các mô hình, cách làm hay, đi vào thực chất trong thực hiện nếp sống văn hóa, văn minh.
6. Tăng cường quản lý nhà nước về quy hoạch, đất đai, tài nguyên và bảo vệ môi trường; đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ. Tập trung triển khai việc lập, điều chỉnh các quy hoạch quy định theo đúng Luật Quy hoạch có hiệu lực từ ngày 01/01/2019; hoàn thành các quy hoạch và thực hiện các quy hoạch KKT Vân Đồn, Quy hoạch KKT ven biển Quảng Yên, khu công nghiệp hỗ trợ Việt Hưng sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tăng cường quản lý quy hoạch; nâng cao chất lượng quy hoạch phân khu, chi tiết, nhất là tại các khu đô thị, khu du lịch, địa bàn trọng điểm. Siết chặt quản lý nhà nước về đất đai, tài nguyên, khoáng sản, đô thị, nhất là thủ tục giao đất, đấu giá đất, đấu thầu dự án và nghĩa vụ tài chính với Nhà nước; kiên quyết thu hồi các dự án chậm tiến độ, vi phạm pháp luật. Quan tâm công tác chỉnh trang hạ tầng đô thị, nông thôn, quản lý chặt chẽ kiến trúc cảnh quan, hoạt động xây dựng, trật tự đô thị. Tiếp tục triển khai nhiệm vụ “Bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường tự nhiên” và Nghị quyết số 12-NQ/TU của Tỉnh ủy về bảo vệ môi trường, để từng bước chuyển đổi căn bản nhận thức của người dân và doanh nghiệp trong công tác bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống. Tăng cường quản lý tài nguyên, khoáng sản; kiểm soát, ngăn chặn và xử lý kịp thời hoạt động khai thác, vận chuyển, kinh doanh tài nguyên, khoáng sản trái pháp luật. Triển khai hiệu quả Nghị quyết 07-NQ/TU ngày 13/3/2017 của Tỉnh ủy về phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020; nâng cao năng lực tiếp cận và ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển giao công nghệ trên tất cả các lĩnh vực quản lý, quản trị xã hội. Đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án xây dựng chính quyền điện tử giai đoạn II, các dự án thành phần thuộc "Đề án thành phố thông minh”, bảo đảm đồng bộ, hiện đại.
7. Tăng cường công tác thanh tra, tư pháp; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thực hiện thống nhất chương trình kiểm tra, giám sát, thanh tra; triển khai các kết luận, kiến nghị sau kiểm tra, thanh tra, kiểm toán; tổ chức thanh tra trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; thực hiện nghiêm quy định về kê khai tài sản theo quy định của pháp luật. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ngay từ cơ sở; giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài, đông người, không để phát sinh, hình thành điểm nóng, mất an ninh trật tự. Thực hiện có hiệu quả Chiến lược cải cách tư pháp, phổ biến, giáo dục pháp luật từ tỉnh đến cơ sở.
8. Bảo đảm quốc phòng, an ninh; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại. Triển khai hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của Tỉnh về quốc phòng, an ninh; duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc tình hình, phối hợp các lực lượng bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, biển đảo, không để bị động, bất ngờ; xây dựng, triển khai các phương án bảo đảm ANTT nhằm xử lý hiệu quả các tình huống phức tạp phát sinh. Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia”, phong trào tự quản về an ninh, trật tự trong các khu dân cư. Đấu tranh, ngăn chặn kịp thời các âm mưu, hoạt động lợi dụng "dân chủ", "nhân quyền", vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá Đảng, Nhà nước; trấn áp mạnh với tội phạm hoạt động theo ổ, nhóm, sử dụng vũ khí "nóng", tội phạm kinh tế, ma túy, xâm hại trẻ em; tội phạm sử dụng công nghệ cao, hoạt động cầm đồ, "tín dụng đen", "bảo kê", đòi nợ thuê... Tăng cường thanh tra, kiểm tra, khắc phục dứt điểm các vi phạm, sơ hở về phòng cháy, chữa cháy, quyết liệt các giải pháp đảm bảo trật tự an toàn giao thông, trật tự đô thị, xử lý nghiêm xe quá tải, quá khổ.
9. Xây dựng nền hành chính hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương. Tiếp tục đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền, gắn với đề cao trách nhiệm cá nhân người đứng đầu; giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc cho cơ sở; phân công rõ nhiệm vụ và người chịu trách nhiệm đảm bảo giải quyết đến cùng nhiệm vụ được giao. Giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính; tăng cường thanh tra, kiểm tra trách nhiệm người đứng đầu và việc thực thi chế độ công vụ của cán bộ, công chức. Tiếp tục thực hiện phân cấp, ủy quyền trên một số lĩnh vực gắn với đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát hiệu quả công việc. Tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình hành động số 21-CTr/TU ngày 05/02/2018 thực hiện Nghị quyết số 18, số 19 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII); Nghị quyết số 26 ngày 19/5/2018 của Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ. Thực hiện sáp nhập các phường, xã, thôn, bản không đảm bảo tiêu chí theo quy định, phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh.
10. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, tạo sự đồng thuận xã hội. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị, xã hội trong việc phối hợp, tổ chức thực hiện và tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân đoàn kết, tin tưởng và tích cực tham gia thực hiện các chủ trương, chính sách của Trung ương, của tỉnh. Các cơ quan nhà nước các cấp chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, công khai, minh bạch về tình hình kinh tế - xã hội và các chủ trương, chính sách trong chỉ đạo, điều hành thông qua nhiều hình thức để nhân dân biết, giám sát. Tăng cường tổ chức đối thoại, tiếp nhận các ý kiến phản biện để tạo sự đồng thuận cao và phát huy sức mạnh của toàn xã hội thực hiện vượt các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2019./.
Ý kiến ()