Tất cả chuyên mục

Đầu tư hạ tầng thủy lợi phục vụ sản xuất cho người dân vùng khó là một trong những nội dung được tỉnh Quảng Ninh hết sức quan tâm.
Quan tâm đầu tư hạ tầng
Tỉnh Quảng Ninh có 56 xã, thị trấn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, với trên 162.530 người, chiếm 12,31% dân số toàn tỉnh, sinh sống ở các địa phương có vị trí trọng yếu về quốc phòng an ninh, biên giới quốc gia. Hiện, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo của tỉnh Quảng Ninh chủ yếu ở khu vực miền núi, biên giới, hải đảo.
Những năm gần đây, tỉnh Quảng Ninh đã dành nhiều nguồn lực để hiện thực hóa các mục tiêu của Nghị quyết 06-NQ/TU, đồng thời triển khai Chương trình tổng thể phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh tại các xã, thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới và hải đảo. Nhằm thúc đẩy sản xuất, nâng cao thu nhập và giúp người dân thoát nghèo bền vững, tỉnh đặc biệt chú trọng đầu tư hệ thống hạ tầng thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đây không chỉ là giải pháp hỗ trợ sinh kế mà còn là động lực quan trọng giúp thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền, nâng cao chất lượng đời sống cho bà con, hướng đến sự phát triển bền vững và toàn diện.
Bình Liêu là huyện miền núi, biên giới với tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số chiếm khoảng 96%, chủ yếu là dân tộc Tày, dân tộc Dao và dân tộc Sán Chỉ, nguồn thu nhập của người dân dựa vào nông, lâm nghiệp là chính. Huyện có địa hình nhiều đồi núi dốc, nhiều khu vực đất nông nghiệp chỉ canh tác được 1 vụ, thậm chí bỏ hoang do thiếu nước tưới, vì vậy người dân gặp không ít khó khăn trong phát triển kinh tế. Để giải quyết những khó khăn của người dân, các phòng, ban chuyên môn của huyện đã khảo sát, nghiên cứu địa hình và lên phương án xây dựng tuyến đập, mương nhằm cung cấp nguồn nước cho người dân nơi đây. Trong năm 2024, Bình Liêu đã triển khai xây dựng 18 công trình đập và kênh, trong đó có 8 đập và 10 kênh tại các thôn khó khăn của huyện như Sông Moóc, Nà Choòng, Nà Áng, Ngàn Vàng Dưới, Nà Khau... Những mảnh đất hoang hóa trước đây của các thôn nay người dân có thể trồng cấy quanh năm, góp phần nâng cao thu nhập.
Anh Phùn Tắc Thềnh (thôn Sông Moóc, xã Đồng Văn) cho biết, trước đây, mấy tuyến kênh mương chủ yếu là mương đất, nên khi đưa nước ra tưới tiêu cho đồng ruộng gặp rất nhiều khó khăn, nước bị ngấm, rò rỉ ra ngoài, khi mưa to thì bị sạt lở nên gia đình tôi cũng như nhiều bà con trong thôn chỉ cấy được 1 vụ, chúng tôi cũng đã trồng thử các loại hoa màu khác thay thế, nhưng do không có nước để tưới nên không đem lại năng suất cao. Nay có con mương kiên cố, gia đình tôi thấy vui lắm, yên tâm trồng trọt, chăn nuôi, không lo thiếu nước sản xuất như thời gian trước.
Song song với đó, huyện Bình Liêu cũng đã chỉ đạo các xã tích cực làm thủy lợi nội đồng, rà soát, kiểm tra các công trình thủy lợi bị hư hỏng, cần xây mới, tu bổ để tiếp tục đầu tư nâng cấp, sửa chữa. Đến nay toàn huyện Bình Liêu đã có trên 170 kênh mương lớn nhỏ phục vụ cho việc tưới tiêu cho người dân trên địa bàn.
Cũng giống như huyện Bình Liêu, huyện Tiên Yên có 50% là đồng bào dân tộc thiểu số, trước đây canh tác của người dân chỉ dựa vào nguồn nước khe, suối tự nhiên và chờ nước mưa. Những chân ruộng cao, người dân dùng những ống nước nhựa bé để dẫn nước vào ruộng cấy lúa. Do không chủ động được nguồn nước, nên năng suất, sản lượng lúa thường không cao. Thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ đầu tư, nhiều công trình thủy lợi các xã vùng cao của huyện được xây dựng đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả phục vụ sản xuất.
Điển hình như xã Đông Ngũ (huyện Tiên Yên), nhiều thôn trên địa bàn xã có địa hình đồi núi dốc, sông, suối ngắn, mùa mưa lũ thì nước lũ chảy mạnh, mùa khô thì nhanh cạn kiệt. Hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số ở đây chỉ canh tác được một mùa. Được sự quan tâm của huyện, của tỉnh, xã Đông Ngũ đã được đầu tư 5 hồ đập lớn, nhỏ và 68 kênh mương. Đặc biệt để phục vụ nhu cầu nước sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp, năm 2018 xã Đông Ngũ đã được đầu tư nâng cấp công trình thuỷ lợi hồ Khe Táu có dung tích 5 triệu m3. Hiện hồ đã cung cấp nước tưới cho gần 300ha đất nông nghiệp trồng lúa, rau và các loại cây trồng khác của 2 xã Đông Ngũ và Đông Hải.
Ông Nguyễn Văn Hồng, Chủ tịch UBND xã Đông Ngũ, cho biết: Từ các hệ thống thủy lợi được đầu tư đưa vào sử dụng đã giúp bà con có điều kiện canh tác, phát triển sản xuất nông nghiệp. Người dân không những sản xuất được 2 vụ lúa/năm mà còn trồng được nhiều loại hoa màu khác như trồng khoai tây Atlantic... Xã cũng đang tích cực huy động các nguồn vốn đầu tư sửa chữa, nâng cấp cơ sở hạ tầng thủy bị hư hỏng do cơn bão số 3 năm 2024 và mở rộng diện tích sản xuất nông nghiệp ở những vùng chủ động nguồn nước tưới. Đồng thời, xã tiếp tục vận động người dân chuyển đổi cây trồng nhằm nâng cao sản lượng lương thực, đời sống của người dân.
Hiện nay, trên địa bàn Tiên Yên có tổng số 16 hồ thủy lợi (4 hồ thủy lợi do Công ty Thủy lợi Miền Đông quản lý, 12 hồ thủy lợi giao cho UBND các xã quản lý), 11 đập dâng; 6 trạm bơm tưới, tiêu; hệ thống đê có tổng chiều dài 42,406km; 307,8km kênh mương trên địa bàn.
Đảm bảo chủ động nguồn nước
Hiện toàn tỉnh Quảng Ninh có 176 hồ chứa nước đang hoạt động, với tổng dung tích hữu ích khoảng 323,12 triệu m3/năm, trong đó có 27 hồ chứa thực hiện cấp nước đa chức năng với tổng dung tích hữu ích 257,4 triệu m3. Đặc biệt, trong giai đoạn 2021-2025, trên địa bàn các huyện miền núi đã được đầu tư xây dựng 30 công trình thủy lợi, gồm các công trình hồ chứa, đập và kênh mương, với tổng kinh phí 129,464 tỷ đồng. Mặc dù nguồn nước tiềm năng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là khá dồi dào, tuy nhiên biến động giữa mùa lũ và mùa kiệt là rất lớn và nguồn nước đó chỉ giữ lại được một phần; phần lớn nước chảy trên các sông suối, bề mặt lưu vực rồi cuối cùng chảy ra biển. Phần trữ lại chính là nước trữ trong các hồ chứa, nước dưới đất hoặc trong các ao hồ tự nhiên với dung tích hữu ích rất nhỏ so với nguồn nước tiềm năng. Hệ thống công trình khai thác sử dụng nước còn thưa và phân bố không đều.
Để chủ động nguồn nước trong mọi tình huống, đảm bảo số lượng, chất lượng nước, tỉnh Quảng Ninh đã có Đề án “Đảm bảo an ninh nguồn nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030" với mục tiêu đến năm 2025 cấp nước chủ động cho 85% diện tích đất trồng lúa 2 vụ, 90% diện tích cây trồng cạn, với mức đảm bảo tưới 85%. Đảm bảo cung cấp đủ nước cho chăn nuôi, định mức cấp nước cho trâu bò là 65l/ngày đêm/con; lợn, dê là 25l/ngày đêm/con; gia cầm là 1,5l/ngày đêm/con. Mục tiêu đến năm 2030, cấp nước chủ động cho 90% diện tích đất trồng lúa 2 vụ, 95% diện tích cây trồng cạn, với mức đảm bảo tưới 85%. Đảm bảo cấp nước chủ động cho nuôi trồng thủy sản thâm canh tập trung, công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao, định mức cấp nước: Nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 12.000m3/ha/năm; nuôi trồng thủy sản nước mặn, lợ là 16.000m3/ha/năm.
Để đạt được mục tiêu của đề án, tỉnh cũng đề ra các giải pháp như: Đầu tư xây dựng các công trình chứa, khai thác nguồn nước (đập, trạm bơm, thiết bị lọc nước biển…); sửa chữa, nâng cấp công trình hiện có; nâng cao chất lượng, phát triển nguồn nước (trồng rừng, liên thông các hồ chứa…); tăng cường củng cố và nâng cao nhận thức về bảo tồn và phát triển các vùng đất ngập nước tự nhiên; tuyên truyền phổ biến các giải pháp, công nghệ tưới tiết kiệm, đặc biệt là vùng khó khăn về nguồn nước; nâng cao hiệu quả quản lý, vận hành các công trình khai thác, sử dụng nguồn nước; tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, an toàn nguồn nước; thu hút mọi nguồn lực phát triển và bảo vệ nguồn nước; đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng các giải pháp khoa học và công nghệ mới, đột phá, tiên tiến, hiện đại, thông minh trong phát triển, quản lý, khai thác nguồn nước hiệu quả, bảo vệ môi trường...
Đề án sẽ chủ động ứng phó có hiệu quả với các loại hình thiên tai liên quan đến nước, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, đảm bảo sức khỏe, đời sống, sản xuất của người dân trong toàn tỉnh thì rất cần có một đề án tổng thể để đảm bảo an ninh nguồn nước và phòng chống các thiên tai do nước gây ra cho toàn tỉnh.
Có thể nói, với sự quan tâm vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị trong công tác đầu tư hạ tầng thủy lợi phục vụ sản xuất cho người dân vùng khó, thu nhập bình quân của người dân đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo trong toàn tỉnh năm 2024 gần 7 triệu đồng/người/tháng, tăng 14,2% so với năm 2023. Bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Ý kiến ()